Thứ Ba, 25 tháng 1, 2011

2. Huyền sử cha Rồng mẹ Tiên.

Mỗi  vùng cư dân, mỗi miền đất có người ở đều có huyền sử nói về buổi đầu có con người và xứ sở. Các huyền sử có những chi tiết và kết cấu khác nhau. Nét đặc trưng của huyền sử bao giờ cũng xuất hiện nhân vật và sự việc phi thường sáng tạo ra núi sông, con người. Con người có được cũng phải trải qua quá trình từ hiện trạng này tới hiện trạng khác, mục đích huyền sử thỏa mãn và tạo sự tự hào cho con người khi muốn nói về nguồn gốc xuất phát của mình.

Thời xưa, người ta chưa có lập luận khoa học xác đáng để diễn giải sự có mặt của con người trên trái đất. Nhưng người ta cũng tự hiểu: con người không thể có trước đất đai, sông núi, và đất đai, sông núi cũng không thể có trước vũ trụ bao la. Việc tìm ra được khởi điểm xuất phát vũ trụ bao la vẫn là vấn đề khó khăn đối với trí khôn loài người. Ðã vậy huyền sử là "điểm chặn" để giới hạn thắc mắc con người đối với sự tác thành ra nó. Huyền sử chứa đựng những ý nghĩa khác với thực tại. Thực tại đời sống con người chỉ chịu những tác động trừu tượng đối với huyền sử: tự hào giống nòi, xây dựng hiện tại tốt đẹp hướng tới triển vọng tương lai vinh quang hơn, nhưng thực tại không có liên kết cụ thể nào đối với huyền sử. Ðối với xã hội đời sống thực tế, huyền sử phần nhiều chỉ là chuyện tưởng tượng không có thực!
Cuốn "Ðại Việt sử ký" của sử gia Lê Văn Hưu chỉ viết sử Việt từ năm 207 trước công nguyên tới năm 1225 sau công nguyên. Pho sử này không viết thời đại Hồng Bàng và triều đại An Dương Vương nhà Thục.
Năm 1457 dưới triều Lê Nhân Tông, sử quan Phan Phu Tiên (theo gia phả họ Phan, làng Ðông Ngạc, Hà Nội thì viết là Phan Phù Tiên) tu soạn tiếp nối bộ sử của Lê Văn Hưu. Ông cũng là nhà văn học soạn cuốn "Việt âm thi tập". Nhưng về sử, ông không bổ sung được chỗ trống chưa viết về thời đại Hồng Bàng.
Phải đợi tới năm 1479, dưới triều vua Lê Thánh Tông, sử quan Ngô Sĩ Liên soạn bộ "Ðại Việt sử ký toàn thư", bộ sử này có chép thời đại Hồng Bàng.
Trong phần đề tựa cuốn sử "Ðại Việt sử ký toàn thư", sử gia Ngô Sĩ Liên cho biết: trước ông có Hồ Tông Thốc soạn cuốn "Việt sử cương mục". Nhưng ngay cả Ngô Sĩ Liên cũng không có được cuốn sử ấy khi viết sử. Ngô Sĩ Liên viết:
"Riêng có bộ"Việt sử cương mục" của Hồ Tông Thốc làm ra thì chép việc thận trọng mà có phép, bình việc thiết đáng mà không thừa". Ở đoạn dưới Ngô Sĩ Liên lại viết:
"Khoảng niên hiệu Quang Thuận (1460 - 1469) hạ chiếu tìm các dã sử về truyện ký, tất cả tâu lên vua để dùng trong việc tham khảo. Lại cho các nho thần bàn bạc, biên sắp, tôi hồi trước ở sử viện, từng được tham dự. Tới khi lại vào, thì sách ấy (ý nói cuốn "Việt sử cương mục" của Hồ Tông Thốc) đã dâng lên cất vào Ðông Các, không được trông thấy nữa".
Qua những giòng đề tựa nêu trên, cho thấy Ngô Sĩ Liên khi làm sử quan triều Lê Thánh Tông, ông chỉ được tham khảo và sử dụng tài liệu một cách hạn chế. Có những sách, tài liệu dù đã được triều đình sưu tầm, Ngô Sĩ Liên đã từng được thấy, khi ông viết sử, sách lại bị cất vào Ðông Các, không được dùng làm tài liệu.
Có những hạn chế cùng khó khăn của sử quan phải gánh chịu, dẫu sao, Ngô Sĩ Liên vẫn có hoàn cảnh viết sử thuận tiện, vì ông là sử quan dưới triều Lê Thánh Tôn, ông vua có khả năng, tài nghệ văn học vào bậc nhất trong số các vua chúa ở nước ta. Sử quan Ngô Sĩ Liên và những người cùng làm việc trong sử viện có hoàn cảnh thực hiện mục đích: Tổng hợp tất cả những giá trị và bổ khuyết các thiếu sót lịch sử của các thế hệ trước, để có bộ sử có tính toàn thư.
Trong phần "phàm lệ" của bộ sử, ông viết:
" Việc làm ra bộ sử này gốc ở bộ "Ðại Việt sử ký" của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên, tham bác Bắc sử, dã sử với các sách truyện chí, cùng với những điều được nghe, được thấy, được truyền dạy".
Khi viết sử Ngô Sĩ Liên giữ chức: "Hữu thị lang bộ Lễ, triều liệt đại phu, tư nghiệp Quốc tử giám kiêm tu soạn Sử quán" (Ông đậu tiến sĩ năm 1442). Việc hoàn thành bộ sử, ngoài ông ra, còn có nhiều sử quan, nhân tài phụ tá, giúp việc biên soạn, thâu góp tài liệu, khắc gỗ ấn bản.
Cùng thời Ngô Sĩ Liên, có tiến sĩ Vũ Quỳnh có công nhiều trong việc sưu tầm tài liệu lịch sử về thời đại Hồng Bàng. Chắc chắn trong "Ðại Việt sử ký toàn thư" có công lao của Vũ Quỳnh. Phần "phàm lệ" trong "Ðại Việt sử ký toàn thư" cũng viết:
"Nay theo sách của Vũ Quỳnh trước thuật, phần bản kỷ chép bắt đầu từ...". Ðiều đáng ghi nhớ là công lao Vũ Quỳnh đóng góp vào viết sử không phải là ít (Ông là tác giả "Ðại Việt thông giám thông khảo" xuất bản năm 1510 và có công sưu tầm, hiệu đính "Lĩnh Nam chích quái", ngoài ra, theo gia phả họ Vũ ở làng Mộ Trạch, Hải Dương: ông cũng là tác giả bộ "Ðại thành toán pháp").
Cuốn "Lĩnh Nam chích quái", Vũ Quỳnh viết lời tựa khi hiệu đính rồi xuất bản vào năm 1492 là tác phẩm có giá trị lớn xây dựng tòa lâu đài huyền sử dân tộc. Ðặc biệt cuốn sách này có liên hệ ít hoặc nhiều tới thời đại Hồng Bàng và triều đại Thục An Dương Vương ở các truyện:
1) Hồng Bàng       8) Bánh Chưng
2) Ngư Tinh           9) Dưa Hấu
3) Hồ Tinh              10) Bạch Trĩ
4) Mộc Tinh           11) Việt Tỉnh
5) Trầu Cau           12) Lý Ông Trọng
6) Nhất Dạ Trạch  13) Kim Quy
7) Ðổng Thiên Vương 14) Tản Viên
15) Dạ Xoa Vương
Theo Lê Quý Ðôn nêu nghi vấn trong "Kiến văn tiểu lục", trước khi Vũ Quỳnh hiệu đính khoảng một thế kỷ, đã có Trần Thế Pháp hiệu Thức Chi, người huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây thu góp các tài liệu cùng sơ thảo ra "Lĩnh Nam chích quái". Dĩ nhiên nguồn tài liệu nguồn gốc chính để xây dựng tác phẩm vẫn là các truyện ký, truyền thuyết tiềm ẩn, tản mát trong dân gian từ lâu đời. Bằng chứng là cho tới đầu thế kỷ hai mươi, nhà sử học người Pháp Gaspardone sưu tầm được hàng chục dị bản "Lĩnh Nam chích quái", các bản này đều có ít nhiều nội dung khác nhau.
Về thời đại, niên đại được lấy làm chuẩn để viết lịch sử thượng cổ trong "Ðại Việt sử ký toàn thư" không có sự chính xác, vì trong phần "phàm lệ" của bộ sử này cũng đã ghi:
"Từ thời Hùng Vương không có niên biểu, việc thứ tự truyền ngôi của các thời ấy không thể biết được".
Các sử quan thời thế kỷ thứ mười lăm đã viết sử theo phương pháp thông giám do bắt chước các sử quan Trung Quốc qui định thành thông lệ. Các quan lấy sử Trung Quốc làm gốc. Vậy nên nếu sử Việt lấy Kinh Dương Vương là vị vua đầu tiên được ghi trong sử Việt ("Hoàng Việt Giáp tý niên biểu" ghi vào năm 2879 trước công nguyên), tất ông vua này phải ngầm hiểu như có sau một ông vua Trung Quốc cùng thời là Ðế Nghi.
Nhờ các sử quan ngày xưa cho biết cách viết sử theo "phàm lệ", như tỏ ý cho các thế hệ sau biết rằng: Sự cấu trúc lịch sử gò ép theo lối thông giám cương mục của nước ngoài, đi ngược lại truyền thuyết và cấu trúc lịch sử dân tộc chỉ là những giòng sử khép kín, cần tìm lại những giá trị đích thực.
Ðiều quan trọng nên chú ý là: vương hiệu vị vua đầu tiên, các sử gia viết là Kinh Dương Vương là một vương hiệu có nhiều giá trị ý nghĩa. Ðặc biệt giá trị địa lý tỏ ý cho biết là vị vua nước Việt đầu tiên đã cai quản cư dân cùng đất đai cả hai châu Kinh và Dương. Châu Kinh ngày xưa là miền đất Dĩnh, vào thời Xuân Thu (nhà Chu) là nước Sở, một quốc gia rộng lớn nhất trong số các chư hầu nhà Chu. Miền đất rộng lớn này ở phía nam nước Tàu và ở về phía bắc sông Dương Tử (Trường Giang). Còn châu Dương ở thời Xuân Thu là hai nước Việt, Ngô, cũng là miền đất rộng bao la có nhiều sông, hồ, ở về phía nam sông Dương Tử.
Các sử quan Việt đã có những khó khăn và khổ tâm dẫn đến phải làm những công việc ngoài ý muốn hoặc chưa được hài lòng vì:
- Thời đại khởi thủy triều đại Hồng Bàng đối với thế kỷ thứ mười lăm, khoảng thời gian cách nhau khá xa, lại trải qua nhiều tàn phá do loạn ly, chiến tranh.
- Thời đại Hồng Bàng đã bị xóa các di tích văn hóa, văn tự từ trước công nguyên, nên cũng không biết rõ tên vua, tên đất thời ấy, phải lấy tên theo các đời sau đặt ra.
- Triều chính, kỷ cương, văn hóa cho tới cách viết sử của nước Việt, nhiều thứ đã rập khuôn theo cách Trung Quốc. Sử Việt bị một số đông các tác giả Trung Quốc viết sử và truyện ký xuyên tạc.
- Các truyện ký, dã sử, huyền sử thâu thập được nhiễm quá nhiều hoang đường, quái đản.
Trang sử đầu tiên trong bộ "Ðại Việt sử ký toàn thư" viết:
"Xét đời Hoàng Ðế dựng ra muôn nước, lấy Giao Chỉ ở cõi tây nam xa ngoài Bách Việt. Vua Nghiêu sai họ Hy ở Nam Giao định đất Giao Chỉ ở phương nam. Vua Ðại Vũ chia chín châu, Bách Việt là đất Dương châu, Giao Chỉ thuộc vào đấy. Ðời Thành Vương nhà Chu mới xưng là họ Việt Thường, tên Việt bắt đầu từ đấy".
Viết sử về dân tộc, đất nước người Việt, các sử quan lại phải nói tới các ông: Hoàng Ðế, Nghiêu và Vũ cũng chỉ là các tù trưởng hoặc vua của một nước nhỏ ở Trung Quốc thời xa xưa, khi mà Trung Quốc còn chia ra thành hàng nghìn nước nhỏ và bộ lạc địa phương, chưa thành được như nước Trung Quốc về sau và cách nước Việt nhiều nghìn cây số. Ngay cả những sự việc như: "Hoàng Ðế dựng ra muôn nước" và "Vua Nghiêu sai họ Hy ở Nam Giao định đất Giao Chỉ ở phương nam. Vua Ðại Vũ chia chín châu" cũng lại là những việc tưởng tượng không hề có trong thực tế.
Ðể có thể hiểu đích thực được các giòng sử trên, tại sao lại được viết vào cuốn sử Việt, người thời sau nên luôn có những cảm thông các khó khăn và tòa núi nặng đặt lên ngòi bút các sử quan. Ðồng thời người thời sau vận dụng trí xét đoán để gạt ra ngoài gọng kìm uốn nắn những gì sử gia ngày xưa phải viết sai sự thực, phù lập những cái không có thực lại được tôn xưng là có thực.
Tòa núi nặng đó là ý thức đế quyền, chư hầu, phong kiến, từ bên ngoài đã xâm nhập vào đất nước ở cao độ. Trong thời kỳ này, di sản văn minh dân tộc còn đang tiềm ẩn trong đời sống trầm lặng dân gian. Triều đình cùng các sử quan nhiều người chưa nhìn thấy, chưa tìm ra được giá trị cao cả và chính xác nền văn minh cùng điểm xuất phát lịch sử thượng cổ dân tộc.
Gọng kìm uốn nắn các ngòi bút viết sử là khuôn phép viết sử từ Khổng Tử cho tới các danh nho nhiều triều đại về sau. Luận điểm khởi nguyên về lịch sử thượng cổ, nhất định phải theo huyền sử của các thời: Toại nhân, Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Ðế, Nghiêu, Thuấn v..v... (Sự nghiệp của các thời ấy rất nhiều việc là các chuyện tưởng tượng, huyền thoại). Trung tâm phát sinh văn minh cùng đầu mối hệ thống tổ chức xã hội loài người phải phát xuất từ cái gốc Trung Quốc. Nhà Chu là kế hậu truyền nghiệp đế vương của các thế hệ trước truyền lại. Các đời như: Hán, Ðường, Tống, Minh sau này là nối tiếp sự nghiệp nhà Chu. Ðất Trung Quốc là đất trung nguyên, các nước khác tùy theo xa gần đều là chư hầu, phiên thuộc hoặc là các giống Nhung, Di, Man, Ðịch bị coi như man mọi trong hệ thống của Trung Quốc.
Thời đại Ngô Sĩ Liên, các sử gia viết "Ðại Việt sử ký toàn thư" là thời đại nước Việt đã trải qua nhiều thế kỷ tự chủ, lịch sử Việt cũng đã có những liệt nữ, anh hùng: từ Trưng, Triệu v..v... cho tới Lê Lợi. - Tại sao các sử gia cam tâm viết những giòng sử đi chệch khỏi nguồn gốc dân tộc?
Ðể trả lời thắc mắc đó, nên tự ví dân tộc Việt như người tráng sĩ chiến thắng. Ðó là chàng chiến sĩ bất tử, xuất hiện và chiến đấu từ thời Hồng Bàng của nước Văn Lang. Chiến đấu để bảo vệ và phục hồi ánh sáng văn minh thời đại Hồng Bàng, mà Thục Phán, một triều vua tương cận chủng tộc không biết tiếp nối phát huy. Chiến đấu để đánh tan quân cường Tần với bọn Ðồ Thư cùng năm mươi vạn sĩ tốt. Giặc Tần từng san bằng toàn cõi Trung Quốc vẫn phải thất bại ở Việt. Rồi kế tiếp chống: Hán, Ngô, Tấn, Luơng, Tùy, Ðường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh... Người tráng sĩ bất tử Việt qua hàng nghìn năm chưa lúc nào gục ngã trên mảnh đất quê hương. Ngọn cờ chiến thắng đã nhiều lần giương cao, cho tới lúc, hầu như kẻ thù vĩnh viễn không còn dám xâm phạm. Nhưng người tráng sĩ khi đứng lặng dưới ngọn cờ chiến thắng, nhìn quanh dấu tích cơn bão tố chiến trường kéo dài, thật sự phải chấp nhận những mất mát, thua thiệt. Không thể nào tìm thấy trong đổ vỡ chiến trường những công trình văn hiến, văn hóa, văn minh. Cũng không thể tìm ngay lại được hệ thống xây dựng xã hội đời sống con người, đã đi qua từ hàng nghìn năm không được vun bồi trong thanh bình.
Khi đọc "Ðại Việt sử ký toàn thư", thế hệ con cháu ở thế kỷ thứ hai mươi trở đi, đã��#243; chữ quốc ngữ, đã được học, được đọc sử nước Việt nên cảm thông cùng biết ơn các sử quan thời Lê Thánh Tông. Cảm thông vì giới trí thức thời xưa từ lúc đi học, đi thi, thi đậu thành tài đều không được học sử Việt, mà toàn học sử Tàu. Chỉ rất ít các ông trạng, ông nghè khi được vào trước bệ rồng thi đình mới được hỏi ít câu về sử Việt. Biết ơn các sử quan vô cùng, vì lần đầu tiên trong bộ chính sử biên niên đã có viết phần ngoại kỷ, nói tới nguồn gốc dân tộc Việt là họ Hồng Bàng.
Hoàng Ðế là ông vua, theo huyền thoại Trung Hoa, sống cách nay khoảng gần năm nghìn năm, tuổi thọ của ông ta tới trên trăm tuổi, khi già đem quân đi tuần thú được rồng bay xuống đón lên trời (cũng có thể hiểu là: Hoàng Ðế đem quân đi chinh phục cướp phá lân bang bị tử trận).
Sách "Lĩnh Nam chích quái" của Việt có viết:
" Vào thời Hồng Bàng ở Trung Quốc có Ðế Du thuộc dòng dõi Thần Nông đánh nhau với Hoàng Ðế tại Bản Tuyền. Hoàng Ðế thắng, Ðế Du bị tử trận. Nhưng ở đất nước Việt, mẹ con bà Âu Cơ kéo nhau lên biên cảnh, Hoàng Ðế nghe tin lấy làm sợ, đem binh trấn ngự quan tái".
Tương truyền trong bộ sách "Kỳ môn độn giáp" có viết câu "Tích nhật Hoàng Ðế chiến Xi Vưu (có sách viết là Suy Vưu), Trác Lộc kinh kim vị nhược hưu", nghĩa là: ngày xưa Hoàng Ðế đánh nhau với Xi Vưu ở đất Trác Lộc kinh hoàng cho tới ngày nay chưa ngưng chiến.
Theo cuốn "Sưu thần ký" là truyện thần thoại viết vào đời nhà Tấn ở Trung Quốc thì có nội dung tóm lược: "Họ Xi Vưu có khoảng 80 anh em cận chủng với họ Thần Nông Viêm Ðế (có ý nghĩa tượng trưng cho giống Bách Việt). Ðầu tiên Xi Vưu nổi loạn chống Viêm Ðế, Viêm Ðế phải bỏ phương Nam chạy về Trác Lộc ở phương Bắc. Xi Vưu lên ngôi vua rồi thu phục giòng giống Miêu tộc chống lại Hoàng Ðế ở phương Bắc, tiến quân về Trác Lộc. Viêm Ðế phải hòa hoãn với Hoàng Ðế cùng hợp sức đánh Xi Vưu, nhưng cả hai đều bị thua Xi Vưu. Sau nhờ có thần Nắng Hạn, thần Ðất và thần Sấm lập trận đồ đánh giúp cũng không thể thắng nổi Xi Vưu. Sau nữa phải dùng xương ống chân của thần Sấm làm dùi trống thúc quân mới thắng nổi Xi Vưu". (Sách "Ðại Việt sử ký toàn thư" có chép: năm Canh Thìn (1160) triều Lý Anh Tông, tại phường Bố Cái ở thành Thăng Long, triều đình có ban lệnh lập đền thờ Hai Bà Trưng và đền thờ Xi Vưu, nhưng về sau không còn thấy có đền Xi Vưu).
Sách "Lĩnh Nam chích quái" của Việt lại viết: "Ở Trung Quốc Ðế Lai truyền ngôi cho con là Ðế Du, Ðế Du đánh nhau với Hoàng Ðế và Ðế Du bị tử trận".
Có thể là sau khi Ðế Du chết, anh em họ Xi Vưu kế thừa họ Thần Nông tiếp tục chiến đấu chống Hoàng Ðế.
Theo "Sử ký" của Tư Mã Thiên, phần Ngũ Ðế bản kỷ cũng viết:
"Thời Hoàng Ðế họ Thần Nông đã suy, chư hầu chém giết lẫn nhau, khiến trăm họ khốn khổ vô cùng. Triều Thần Nông không đủ khả năng chinh phục. Hiên Viên Hoàng Ðế thao luyện can qua chinh phục chư hầu. Vì vậy các nơi theo về rất đông. Trong các chư hầu thì Suy Vưu (tức Xi Vưu) mạnh nhất. Vua Du Võng triều Thần Nông định đem quân xâm lăng chư hầu, nhưng chư hầu chỉ tuân lệnh Hoàng Ðế. Vua Hoàng Ðế tu sửa đức độ, luyện tập binh mã, rồi đại chiến với vua Du Võng ở Bản Tuyền thành công. Suy Vưu không tuân đế hiệu. Hoàng Ðế triệu tập chư hầu cùng Suy Vưu đại chiến ở Trác Lộc, bắt sống Suy Vưu".
Lấy trí xét đoán những nhận định sự việc huyền sử thời Hoàng Ðế, các liên hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam diễn biến như sau:
Ở thời Hoàng Ðế hai khu vực nhân chủng Bách Việt và Trung Quốc, sự hình thành xã hội con người còn trong thời kỳ bộ lạc. Hình thái chế độ bộ lạc lại đang hình thành sự liên kết các khu vực, tượng trưng bằng hai nền văn minh:
1.-Khu vực định cư đồng bằng ven sông và ven biển: Văn minh nông nghiệp.
2.-Khu vực du canh du mục miền cao: Văn minh du mục.
Khu vực văn minh định cư nông nghiệp của các chủng tộc Việt sống trên hai bờ sông Dương Tử kéo dài cho tới khu vực châu thổ sông Hồng Hà và về phía nam. Nền định cư nông nghiệp có những tiến bộ khả quan về trồng trọt, ngư nghiệp, canh cửi, kiến trúc, văn hóa, do sự cư trú cố định, đông dân cư và giao lưu tiến bộ tại các vùng đồng bằng, duyên hải, thuận tiện cả về đường sông và đường biển.
Khu vực văn minh du canh du mục phát xuất từ thượng nguồn các con sông Hoàng Hà và sông Hoài. Căn bản sự phát triển giống người du mục buổi đầu mang tính hái lượm, săn bắt trong các sinh hoạt di chuyển. Rồi di chuyển đốt rừng trồng trọt, chăn nuôi, săn bắt tiếp diễn nâng dần lên biết đoàn kết để chinh phục tước đoạt. Những chiến thắng mọi kháng cự trên đường đi cộng với những kinh nghiệm trong chiến đấu, hun đúc giống người du mục có tinh thần chiến đấu dũng cảm, chấp hành kỷ luật, biết tổ chức trai tráng, quân binh trong hành quân.
Khi họ chiến thắng họ tiếp thu, ngoài các tài sản vật chất, còn có cả những di sản văn minh, văn hóa. Nhờ đó họ phát kiến ra các phương tiện bằng xe ngựa, cách tìm phương hướng, chế tác sử dụng thành thạo các loại cung tên vũ khí hiệu nghiệm hơn (thí dụ thời nhà Nguyên bên Tàu, dân số Mông Cổ chỉ có vài ba triệu người, đã chiến thắng Trung Quốc, lúc ấy có khoảng trăm triệu người).
Sự đấu sức giữa hai sức mạnh chiến đấu du canh du mục và văn minh định cư nông nghiệp diễn ra vừa xung đột vừa tiếp xúc để hội nhập. Buổi đầu trong chiến đấu sức mạnh du canh du mục đã chiến thắng nền văn minh định cư nông nghiệp. Sau chiến thắng giống du mục trở thành kẻ thống trị thủ lợi và dân định cư sản xuất nông nghiệp bị tước đoạt bóc lột. Nhưng dần dần, nền định cư nông nghiệp có dân số đông hơn, có trình độ văn hóa cao, công, nông, ngư nghiệp phát đạt, sản xuất nhiều, đời sống vươn lên. Tới lúc ấy, nền văn minh định cư lại là chủ nhân và nếp sinh hoạt du mục trở thành lu mờ, phụ thuộc.
Sức mạnh bành trướng du mục của Hoàng Ðế từ thượng nguồn sông Hoàng Hà, khi đã mở rộng ra phía đông, lấn dần miền ven biển, có những lý do tương đồng nhân văn, cận chủng hệ tộc, hình thành được vùng đông dân rộng, nhiều phát triển của hệ thống Hoa tộc. Nhưng khi sự bành trướng Hoa tộc hướng về phía nam bằng các cuộc tuần thú, chinh phục gặp sự chống lại của các chủng tộc Bách Việt ở miền đất hai bên bờ sông Dương Tử kéo dài miên diễn, nên đã để lại truyện tích huyền sử: "Tích nhật Hoàng Ðế chiến Xi Vưu, Trác Lộc kinh kim vị nhược hưu".
Ý nghĩa câu nói: "Tích nhật Hoàng Ðế chiến Xi Vưu, Trác Lộc kinh kim vị nhược hưu" là câu nói bao hàm cả chiều sâu sinh hoạt và chiều dài lịch sử. Cuốn sách "Kỳ môn độn giáp" viết câu nói đó, như nhan đề cuốn sách, có lẽ khi đọc có thể xuyên qua thời gian (độn giáp) để mở ra cánh cửa nhìn thấy các sự mới lạ (kỳ môn).
Xi Vưu là nhân vật tượng trưng sức mạnh của thế lực văn minh định cư nông nghiệp chống lại Hoàng Ðế, trường kỳ, không đầu hàng và cuộc chiến ấy không bao giờ chấm dứt, chiến tranh diễn ra dưới mọi hình thái, không chỉ riêng về mặt quân sự, giống như xung khắc giữa hòa bình và chiến tranh, giữa thiện và ác.
Ðọc lại những giòng sử cũ viết trong "Ðại Việt sử ký toàn thư": "Vua Nghiêu sai họ Hy ở Nam Giao định đất Giao Chỉ, vua Ðại Vũ chia chín châu thì Bách Việt là đất châu Dương, Giao Chỉ thuộc vào đấy".
Vua Nghiêu là ông vua Trung Quốc sự nghiệp và triều đại của ông ta gắn nhiều huyền thoại. Ông vua Nghiêu thời xa xưa ấy, nếu có thực, phạm vi cai trị dân và đất của ông ta cũng chỉ là một bộ lạc lớn. Muốn biết rõ tình trạng Trung Quốc thời Nghiêu sống, tưởng chẳng cần tìm hiểu đâu xa, cứ đọc ngay sách của thầy Mạnh Tử là rõ. Thầy Mạnh được dân Trung Quốc tôn vào bậc Á Thánh, học rộng, biết nhiều, đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người từ vua, quan, cho tới mọi thành phần dân thường. Về học thuật, ông phân tích lý giải có hệ thống, lập luận vững vàng rất hợp với kiến thức khoa học. Thầy Mạnh sống trước các tác giả Trung Quốc viết về sử Việt đầu tiên khoảng năm trăm năm và sống trước các sử quan thời Ngô Sĩ Liên khoảng hơn một nghìn năm. Chắc chắn những nhận định của thầy Mạnh về lịch sử xưa xác thực và đáng tin, hơn những ai viết thiếu chứng cứ mà lại sống sau thầy.
Sách "Mạnh Tử" trong thiên "Ðằng Văn Công" có đoạn viết:
"Thời vua Nghiêu, thiên hạ còn chưa định, nước ngập tràn đầy cả các nơi, cỏ cây um tùm, chim muông nhiều, năm thứ lúa chưa thành thục. Chim muông sống chung với người, những dấu đi chân chim muông đầy khắp cả miền trung nguyên. Vua Nghiêu lấy làm lo ngại, cử ông Thuấn ra khai thác, mở mang thiên hạ. Ông Thuấn sai ông Ích coi việc lửa. Ông Ích đốt rừng, đốt cây hoang, chim rừng xa lánh trốn ẩn. Ông Vũ đào chín cái sông khai thông cho những chỗ nước tù đọng, khai sông Tế, sông Loa, cho chảy về biển. Xẻ các sông Nhữ, Hàn, khơi thêm sông Hoài, sông Tứ về sông Giang. Sau đó miền Trung Quốc mới có thể cày cấy, làm ăn được".
Mạnh Tử xác nhận thời Nghiêu thiên hạ chưa định. Năm thứ lúa (ngũ cốc) phổ biến người ăn chưa thuần chủng. Ngay trên trung tâm Trung Quốc, lối đi của chim muông chung lối đi với người. Ðất đai khắp nơi còn hoang vu bị nước ngập. Như thế, ở thời Hoàng Ðế trước thời Nghiêu, ở Trung Quốc lúc ấy mới tiến tới trình độ đồ đá chuyển tiếp lên thời đại đồ đồng là cùng. Ngay cả việc ông Vũ đi khai hoang ở thời Nghiêu cũng cho thấy: Nghiêu, Thuấn, Vũ chỉ quanh quẩn lo toan khai hoang, trị thủy trong một vùng đất giới hạn nhỏ, so với đất đai sau này của Trung Quốc. Không thể nào có việc: "Vua Nghiêu sai họ Hy ở Nam Giao định đất Giao Chỉ ở phương Nam" như trong "Ðại Việt sử ký toàn thư" đã viết. Lịch sử Tàu từ thời Phục Hy cho tới đầu thời Xuân Thu, các sự việc hầu như gần hết đều do các sử gia Tàu thời sau tưởng tượng viết ra các thời trước.
Các sử gia tôn trọng sự thật của Trung Quốc cũng phần nhiều thừa nhận: ở Trung Quốc vào thời Nghiêu có tới hàng muôn vạn bộ lạc, chưa có sự thống nhất. Sách "Thượng Thư" có câu: "mang mang Vũ tích họa vi cửu châu". Câu này chỉ có nghĩa là: mơ màng nhìn dấu tích ông Vũ vẽ ra chín châu. Dấu tích ở đây lại chỉ là các cảnh sông núi, mà sông núi thì trừ mặt biển ra, ở khắp trái đất, nước nào lại chẳng có sông núi? Cũng may nếu người ta nghĩ chín châu của nước Tàu gồm cả thế giới, bằng vào cái dấu tích "mang mang" hình núi sông, thì cả thế giới cũng đều do ông Vũ vẽ ra và là địa giới nuớc Tàu hết (!). Ngay cả cuốn sách "Thượng Thư", sự có mặt của nó, người nói do trời cho, lại có người nói nghe bức tường cũ nhà Khổng Tử phát ra tiếng đàn, phá tường thì được sách "Thượng Thư", và còn nhiều truyền thuyết bất nhất khác. Tựu trung thì sách "Thượng Thư" chỉ là sách người đời sau tưởng tượng viết về đời trước. Các sự nghiệp viết trong sách ấy, trước nhà Hán, hầu như không có sách nào, truyện ký nào nói tới.
Khi viết về thời đại Hồng Bàng, các sử quan Việt liệt vào loại sử bán tín, bán nghi, mệnh danh cho phần sử này là phần sử "ngoại kỷ". Ðiều đáng tiếc là phần sử "ngoại kỷ" ấy lại có nhiều mâu thuẫn, không hợp lý. Xét kỹ những mâu thuẫn không hợp lý lại không thuộc phần lỗi các sử quan mà toàn vì do sự chép lại các sử, truyện của Trung Quốc một cách quá câu nệ. Có những giá trị lịch sử bị ngụy tạo cũng được chép vào bộ sử Việt. Tưởng như ở phần ngoại kỷ, việc viết sử, các sử quan xưa rất muốn các thế hệ sau lưu tâm suy nghĩ, cẩn trọng, khi đọc sử.
Giả dụ các sử quan người Việt cứ quăng hết mớ lý luận ngụy tạo sử do bọn thái thú, thư lại, ngụy văn bút người Trung Hoa đã viết vào sọt rác. Giả dụ các cụ được phép quên đi lối viết sử theo khuôn phép "thông giám cương mục" theo hệ "thiên triều". Các cụ cứ đi thăm các di tích đền đài, núi sông như: đền Hùng, núi Sóc, núi Tản, và nghe, đọc, các truyền thuyết, truyện ký, thần phả do nhân dân lưu truyền, chắc chắn phần "ngoại kỷ" được nâng cao lên thành phần "bản kỷ" và có nội dung giá trị nhiều hơn rất bội. Hẳn rằng con dân nước Việt sau này đọc sử, thêm được biết bao nguồn cảm vinh hạnh.
Khi nhà Tần xóa bỏ chế độ nhà Chu bằng sức mạnh bạo lực quân sự, thực tế chỉ là xóa bỏ một loạt các nước chư hầu của nhà Chu là các nước: Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Sở, để thống nhất Trung Quốc. Kể từ thượng cổ cho tới lúc ấy chưa hề có các tên gọi của chín châu. Cho tới khi nhà Hán thay thế nhà Tần mới thực sự chia Trung Quốc thành chín châu: Ung, Ký, Lương, Thanh, Từ, Duyện, Dự, Kinh và Dương. Giữa nước Việt ngày nay và châu Dương của Trung Quốc cũng hoàn toàn cách biệt bởi miền rừng núi bao la là miền Lĩnh Nam.
Còn nếu kể tới miền đất đai của giống Bách Việt, theo sách "Lộ sử" của La Tất viết vào thời Tống, thì ở vào đầu thời nhà Chu gồm có các khu vực như:
Việt Thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu Khải, Âu Nhân, Thả Âu, Cung Nhân, Hải Dương, Mục Thân, Phù Xác, Cầm Nhân, Thương Ngô, Man Dương, Dương Việt, Quế Quốc, Tây Âu, Quyên Tử, Sản Ký, Hải Quỳ, Tây Khuẩn, Kê Từ, Bộc Cần, Bắc Ðái, Khu Ngô bao gồm nhiều chủng tộc giống Việt, được gọi chung là Bách Việt.
Lịch sử Trung Quốc kể từ thời Phục Hy cho tới thời Nghiêu, Thuấn chép những mẩu chuyện không xác định được không gian, thời gian. Có thuyết cho thời Phục Hy cách nay khoảng 7000 năm, lại có thuyết cho chỉ cách nay khoảng 5000 năm. Lịch sử nước Việt kể từ khi khởi đầu thời Hồng Bàng cũng có khoảng thời gian tương tự và cũng khó tìm ra sự chính xác.
Sách "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" có dẫn trích sách "Thông chí" do Trịnh Tiều thời Tống soạn và sách "Cương mục tiền biên" do Kim Lý Tường thời Nguyên soạn, ghi thuật một sự việc thời cổ:
"Ðời Ðào Ðường, ở phương Nam có họ Việt Thường dùng người thông ngôn hai lần đến dâng rùa thần chừng nghìn tuổi, vuông hơn ba thước, lưng có khắc chữ theo lối chữ khoa đẩu chép từ khi mở ra trời đất (huyền sử Ðẻ Ðất đẻ Nước?) kể về sau. Vua Nghiêu sai sao lấy, gọi là "lịch rùa".
Sự việc trên, sách "Cương mục tiền biên" cho biết việc xảy ra vào năm thứ năm đời vua Nghiêu. Còn sách "Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu" ghi việc xảy ra vào năm 2353 trước công nguyên. Họ Hồng Bàng lúc ấy đã kéo dài 526 năm.
Trong thiên sử thi "Ðại Nam quốc sử diễn ca" của Lê Ngô Cát cũng có viết:
"Thần qui đem tiến Ðào Ðường,
Bắc, Nam từ đấy giao bang là đầu".
Xuyên qua sự việc nêu trên, có thể đưa ra nhận định:
-Vào thời Hồng Bàng ở hàng chục thế kỷ đầu, xã hội nước Việt có nền văn minh khá cao, có thể hơn xã hội thời Nghiêu ở Trung Quốc, nên Việt mới đem truyền bá nền văn minh của mình bằng phái đoàn ngoại giao có mang theo "rùa Thần", trên lưng rùa có khắc chữ khoa đẩu. Vua Nghiêu đã tiếp nhận văn minh lịch sử Việt, nên đã sai quan sao chép và gọi là "lịch rùa". Ðộng từ "dâng" rùa thần do sử Trung Quốc viết về Nghiêu là đấng thánh quân, thần tượng tôn kính của Trung Quốc, nên đã tự tôn xưng mà viết như vậy.
Câu nói "dùng người thông ngôn hai lần" có nghĩa là phái bộ nước Việt nói tiếng Việt, được dịch sang một thứ tiếng khác, rồi lại phải có người dịch từ tiếng khác ấy sang tiếng Trung Quốc (phiên dịch gián tiếp qua tiếng nước thứ ba) để vua Nghiêu cùng triều đình ông ta nghe. Ðiều này chứng tỏ lúc ấy việc tìm người thông ngôn biết hai thứ tiếng Việt và Trung Quốc khó khăn. Nguyên nhân khó tìm người thông dịch biết hai thứ tiếng vì giữa Việt và Trung Quốc cách biệt xa, không có vùng cư dân nào của hai dân tộc cư trú tiếp cận nhau. Giữa Việt và Trung Quốc cũng rất hiếm các dịch vụ giao lưu, sinh hoạt, buôn bán cùng nhau.
Sự thông dịch về học thuật lịch sử từ khi mở ra trời đất, tất có những danh từ chuyên môn, chuyên loại, người dịch cần có trình độ văn hóa cao. Như vậy lúc ấy, ở giữa Việt và Trung Quốc còn có một nước khác cũng có nền văn minh khá cao, có thể cũng là một nước nào đó trong chủng tộc Bách Việt.
Hơn một nghìn năm sau cuộc bang giao trên, Tư Mã Thiên ghi lại cuộc bang giao khác giữa Việt và Trung Quốc vào năm 1110 trước công nguyên (theo "Ðại Việt sử ký toàn thư" Tân Việt, Sài Gòn Xuất bản năm 1964) :
"...Năm Tân Mão, vào năm thứ sáu đời Thành Vương nhà Chu, xứ Giao Chỉ ở phía Nam, có họ Việt Thường dùng người thông ngôn ba lần mà tới, dâng chim trĩ trắng (câu này trong sách "Tự trị thông giám" viết: Việt Thường dĩ tam tượng trùng dịch nhi hiến bạch trĩ). Chu Công Ðán nói: " Ơn đức không đến, quân tử không hưởng lễ của họ. Chính lệnh không tới, quân tử không coi người họ là bề tôi".
Người thông ngôn đáp: "Những người mồi da vàng tóc (ý nói người quá già, da giống da đồi mồi, tóc bạc lâu ngày, màu trắng của tóc đổi sang màu vàng) ở nước tôi nói rằng: "trời không nắng dữ mưa dầm, biển không nổi sóng ba năm rồi. Ý giả Trung Quốc có thánh nhân chăng? Vì thế nên đến chầu".
Chu Công Ðán dâng cúng lên tông miếu. Sứ giả lạc mất đường về. Chu Công Ðán cho năm cỗ xe liền nhau, đều làm theo phép chỉ nam (có địa bàn nam châm). Sứ giả cưỡi xe qua ven biển Phù Nam, Lâm Ấp, đầy năm về tới nước mình".
Cuộc bang giao lần này, Chu Công Ðán đã đưa ra những lời lẽ xác định giữa Trung Quốc và Việt không có liên hệ gì. Người Việt cũng không chịu ơn đức hay giúp đỡ nào của Trung Quốc. Chính lệnh (mệnh lệnh, luật lệ) của người Trung Quốc không có ảnh hưởng nào đối với người Việt. Vì thế Chu Công Ðán không dám nhận tặng phẩm.
Người thông ngôn đã diễn giải mục đích cuộc bang giao của phái đoàn Việt với ý nghĩa: những bực nhiều tuổi của Việt cho rằng không có gió dữ mưa dầm (đời sống yên bình, không có tai họa), biển không nổi sóng ba năm rồi (ý nói thanh bình không có chiến tranh, cũng ngụ ý phương Bắc đã ba năm không đem quân đánh phá, xâm lăng miền Nam) vì thế cho rằng ở Trung Quốc có bực hiền tài trị nước, nên cử phái đoàn tới để gặp thảo luận bang giao hòa hợp lâu dài trong thanh bình.
Qua câu nói: "Sứ giả cưỡi xe qua ven biển Phù Nam, Lâm Ấp, đầy năm về tới nước mình", cho thấy thời Hồng Bàng nền văn minh cùng ảnh hưởng bang giao của Việt đã bừng tỏa rộng lớn kể cả phía bắc, phía nam cùng khắp các quốc gia lân cận. Ðoàn xe của sứ giả Việt được phép đi qua nhiều nước, và có thể ở mỗi nước phái bộ cũng có tới giao tiếp để kết mối giao hảo hòa bình. Suy tưởng về thực tế chuyến đi, thời gian lượt về kéo dài một năm, phải qua nhiều chặng đường dài gian lao, vất vả, dù phương tiện di chuyển có xe được đóng liền nhau dễ dàng việc sinh hoạt ăn, ngủ, ngay cả trong khi đi, không làm gián đoạn, chậm trễ việc hành trình. Nhưng đoàn xe phải băng qua nhiều con sông lớn, nhiều khu rừng núi cao. Dù có địa bàn chỉ nam không bị mất phương hướng, tuy vậy xe phải xuyên thẳng đi các nơi gian khổ khó đi, nhất là phải vượt qua các dãy núi cao như Ngũ Lĩnh. Cũng có thể phái đoàn khi gặp con sông Mékong chạy xuôi từ bắc xuống nam, nương theo sông, khi đi thuyền, lúc đi theo bờ sông bớt được nhiều khó khăn trở ngại trong chuyến hành trình. Cộng cả lượt đi và lượt về thời gian mất khoảng hai năm, trải qua hàng chục nghìn cây số, đường đi vượt núi đèo cao, qua sông sâu thác ghềnh, gian nan, hiểm trở. Sự quyết tâm kiên trì của mọi người trong phái đoàn là sự mạo hiểm hy sinh cao độ, nhưng uy danh của nước Việt lúc ấy cũng phải được cả hàng chục nước đương thời nể vì. Trường hợp phái đoàn ngoại giao Việt tới thăm hay đi qua các nơi có thảo tặc, hung đồ, chắc vua các nước bản địa cũng sẵn lòng cho quân lính đi dẫn đường bảo hộ.
So sánh đoàn sứ giả thời Hồng Bàng đi truyền bá văn minh và hòa bình nói trên đây, để định giá trị với cuộc ra đi du thuyết của thầy trò Khổng Tử vào thời sau này của nhà Chu ở Trung Quốc, thiết nghĩ sứ mệnh của phái đoàn Việt có tầm vóc vĩ đại, giá trị ý nghĩa cao hơn gấp bội. Ðáng tiếc văn tự không còn, nên cũng chẳng thể còn biết rõ nội dung và chi tiết sự lý luận bang giao ra sao?
cột cờ
Nước Phù Nam là quốc gia tọa lạc trên miền đất phía đông hạ nguồn sông Mékong có mặt từ thời cổ, cho tới thế kỷ thứ ba. Nay nước ấy còn một số dân sống rải rác tại miền Tây Nguyên và còn để lại nền văn minh Óc Eo nhiều di tích ở miền tây Nam Bộ và ở các nhà bảo tàng. Trước khi về tới nước Việt, phái đoàn ngoại giao Việt vòng xuống phía nam qua Phù Nam, qua Lâm Ấp (tức Chiêm Thành) rồi mới về tới nước nhà.
Cũng cuộc bang giao trên chép trong "Lĩnh Nam chích quái" có nội dung như sau:
"Thời Thành Vương nhà Chu, sứ thần nước ta đưa sang nhà Chu giống chim bạch trĩ, nhưng ngôn ngữ bất thông, Chu công sai người thông dịch lại mới hiểu.
Chu Công hỏi:
- Người Việt cắt tóc vẽ mình, để đầu trần, ngón chân cong là tại sao ?
Sứ giả đáp:
- Cắt tóc ngắn để tiện vào rừng, vẽ mình để làm hình rồng lội dưới nước giao long không dám phạm đến, đầu trần để khử nóng bức, ăn cau trầu để trừ ô uế và làm cho răng đen.
Chu Công hỏi đến đây vì lý do gì?
Sứ giả đáp:
- Trời không gió dữ mưa dầm, biển không nổi sóng nay đã ba năm, nghĩ rằng Trung Quốc có thánh nhân nên mới sang đây.
Chu Công than:
- Chính lệnh không tới, quân tử không bắt người ta làm tôi, đức trạch không thêm, quân tử không hưởng của cống.
Kịp nhớ xưa Hoàng Ðế có lời thề: "Giao Chỉ ở ngoài phương xa, không được xâm phạm", mới thưởng cho tặng vật rồi khuyên về. Sứ giả quên mất đường về. Chu Công cho một cỗ xe hai ngựa theo hướng nam mà đi."
Tượng bằng gỗ thời đại nước Phù Nam

Nước Việt đã từng có các tên như: Xích Quỉ, Việt Thường, Lạc Việt, Văn Lang, Âu Lạc, Giao Chỉ, Vạn Xuân, Ðại Cồ Việt, Ðại Việt, An Nam, Ðại Nam và Việt Nam. Các danh từ: Xích Quỉ, An Nam, Giao Chỉ do người Trung Quốc đặt ra để gọi nước ta đều có ý tỏ sự khinh mạn, cũng như họ gọi người da trắng là Bạch Quỉ, bao gồm ý tự kiêu, tự mạn khinh giống người khác giống.
Trở lại việc tìm nguồn gốc huyền sử dân tộc Việt, "Ðại Việt sử ký toàn thư" viết:
"Xưa cháu ba đời Viêm Ðế họ Thần Nông là Ðế Minh sinh ra Ðế Nghi. Sau sang tuần thú phương Nam, đến dãy Ngũ Lĩnh tiếp được Vụ Tiên nữ sinh ra Lộc Tục, Vương (tức Lộc Tục) là bực thánh trí thông minh. Ðế Minh yêu quí muốn cho nối ngôi, Vương cố nhường cho anh mình không dám nhận mệnh. Ðế Minh lập Ðế Nghi làm con nối giòng trị phương Bắc. Lại cho Vương làm Kinh Dương Vương trị phương Nam, đặt tên nước là Xích Quỉ. Vương lấy con gái chúa Ðộng Ðình là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân húy là Sùng Lãm. Lạc Long Quân lấy con gái Ðế Lai (con Ðế Nghi) là nàng Âu Cơ, sinh ra trăm trai, tục truyền sinh ra trăm trứng. - Ấy là tổ tiên của giống Việt. Một hôm vua bảo Âu Cơ: - Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thủy hỏa tương khắc, sum họp thực là khó, bèn cùng ly biệt nhau... Chia năm chục con theo mẹ về núi, năm chục con theo cha ở miền biển Nam. Phong người con cả là Hùng Vương nối ngôi vua".
(Nay tại làng Bình Ðà, huyện Thanh Oai và làng Hát Môn, huyện Phúc Thọ thuộc tỉnh Hà Tây vào ngày 6 tháng 3 âm lịch hằng năm cả hai nơi đều có truyền thống làm lễ thả 49 viên bánh trôi xuống nước. Ðó là nghi lễ thờ tượng trưng cho 49 người con theo Lạc Long Quân xuống biển, sống tại các miền nước phía nam).
Nhận xét về đoạn sử trên, cũng trong "Ðại Việt sử ký toàn thư", Ngô Sĩ Liên đã viết phần lời bàn:
"Lúc trời đất mở mang gây dựng, có giống do khí hóa sinh ra, rồi mới có giống do hình hóa sinh ra... Không giống nào mà không do ở khí âm và dương. Kinh Dịch dạy: "Trời đất ấp ủ, muôn vật nảy nở... trai gái góp tinh, muôn vật hóa sinh...". Cho nên có chồng vợ rồi mới có cha con, có cha con rồi mới có vua tôi. Nhưng các bậc thánh hiền sinh ra tất khác với người thường, ấy là bởi trời xui khiến. Nuốt trứng chim én mà sinh ra tổ nhà Thương. Dẵm vết chân người khổng lồ mà gây nên tổ nhà Chu. Ấy đều là chép chuyện có thật thế! Giòng dõi họ Thần Nông là Ðế Minh được Vụ Tiên nữ mà sinh ra Kinh Duơng Vương, ấy là thủy tổ nước Bách Việt! Vương lấy nàng Thần Long mà sinh Lạc Long. Lạc Long lấy con gái Ðế Lai mà sinh dục có điềm lành trăm trai. Ấy chính vì thế mà gây dựng được nên nước Việt ta đó chăng? Xét về ngoại kỷ sách "Thông giám" thì Ðế Lai là con Ðế Nghi. Vậy mà lại thông gia với nhau! Ấy là vì còn là hồng hoang, lễ nhạc chưa tỏ rõ cho nên thế chăng?"
Nhờ có phần lời bàn của sử gia Ngô Sĩ Liên dưới mỗi đoạn trong cuốn sử, như muốn hé mở cho các thế hệ sau, thấy được các khó khăn ẩn ngụ ngay trong quan điểm và nhận thức của các sử quan khi viết sử. Các sử quan khi viết các giòng sử trên, rồi lại tự đặt ra hai câu hỏi: "Ấy chính vì thế mà gây dựng được nên nước Việt ta đó chăng?" "Ấy là vì còn là hồng hoang, lễ nhạc chưa tỏ rõ cho nên thế chăng?". Chính hai câu hỏi này, các sử quan đã mở rộng hai cánh cửa sử học, truyền bảo cho các thế hệ sau cần phải nghiên cứu tìm cho ra sự thực lịch sử.
Cũng qua phần lời bàn của sử quan Ngô Sĩ Liên, dưới mỗi đoạn sử, thế hệ sau thấy được quan điểm và nhận định của các quan thời ấy, khi viết sử.
Kinh Dịch là bộ sách có chữ và lời ý nghĩa rất tượng trưng. Có những câu trong kinh Dịch mỗi người hiểu một nghĩa khác nhau. Cùng một người mỗi lúc đọc lại có nhận thức khác nhau. Từ đó Ngô Sĩ Liên lấy kinh Dịch ra để biện luận những tư tưởng, điển tích, ông đã sưu tầm viết thành sử về thời Hồng Bàng. Ông cho nhân vật Bàn Cổ của Trung Quốc là có thực. Ông lại cho những huyền thoại về tổ nhà Thương, nhà Chu cũng là có thực. Ông cũng như các trí thức khác cùng thời đều phải coi nền học vấn của Trung Quốc là Thiên triều, các nhân vật huyền sử Trung Quốc là tối thượng đáng kính, không còn phải cần phân tích giá trị thực, hư, chân hay giả, huyền sử với tín sử được coi ngang nhau. Có như vậy các sử quan, dù không muốn tin cứ phải tin, mới bảo vệ được thuyết thần quyền.
Ðiểm cực kỳ phi lý là: Ðế Nghi và Lộc Tục là hai anh em ruột có cha chung là Ðế Minh. Lạc Long Quân là con Lộc Tục kết hôn với Âu Cơ mà Âu Cơ là con Ðế Lai, Ðế Lai lại là con Ðế Nghi. Như vậy, Lạc Long Quân là cháu ba đời của Ðế Minh kết hôn với Âu Cơ là cháu bốn đời của Ðế Minh! Câu chuyện "cháu ông vua Tàu" kết hôn với "chắt ông vua Tàu" nào có gì là ngụ ý "giòng giống Rồng Tiên?"
Ðọc đoạn sử trên thấy dâng lên nỗi niềm bâng khuâng, thắc mắc:
- Thắc mắc vì không hiểu tại sao đoạn huyền sử "cha Rồng mẹ Tiên" đẻ ra "trăm trứng trăm con" thành trăm giống Việt, lại được viết ở sau đoạn sử có vẻ chính sử biên niên?
- Bâng khuâng vì cứ căn cứ theo những giòng sử ngoại kỷ trên, tổ tiên giống Việt đều do người Trung Quốc đẻ ra hay sao?
Sau này sử quan Phan Thanh Giản khi giữ chức Hiệp biện đại học sĩ kiêm tổng tài soạn bộ "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" có đưa ra nhận xét làm sáng tỏ vấn đề: "Xét trong sử cũ, triều họ Hồng Bàng có nói đến Kinh Dương Vương không có gì là đáng tin, chỉ là mượn chuyện Liễu Nghị đời Ðường là chuyện bịa đặt".
Bộ "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" đáng được kể là bộ sử tổng hợp được số lớn sách sử lâu đời, có hàng trăm trí thức đời Tự Ðức (1847 - 1883) tham dự biên soạn, trong số đó có cả cha con nhà lãnh tụ yêu nước Phan Ðình Phùng góp sức.
Thì ra câu chuyện Ðế Minh sinh ra Kinh Dương Vương chỉ là chuyện bịa đặt của một nhà văn sống vào thời đại nhà Ðường ở bên Tàu. Nhà Ðường có sau buổi đầu thời đại Hồng Bàng khoảng ba nghìn năm. Cái ông nhà văn Liễu Nghị đời Ðường ấy chắc chẳng biết rõ gì về huyền sử tổ tiên Việt (nếu không cố ý xuyên tạc). Thế mà nội dung câu chuyện tưởng tượng bịa đặt lại được viết vào những giòng đầu sử Việt.
Sự cấu trúc lịch sử thời thượng cổ không thể ghi chép bằng phương thức không minh lý. Cái không có thực của huyền sử, không thể đem gán ghép vào đuôi cái bịa đặt như thực của chính sử. Ðã là huyền sử của những khởi đầu lịch sử, không ai biết được chính xác để có thể gán ghép cái đầu lịch sử khác lên trên đầu huyền sử. Lạc Long Quân là nhân vật thần thánh siêu phàm theo trí tưởng tượng tôn sùng của các dân tộc Việt, không thể là con cháu của cái ông vua Tàu phàm tục, tầm thường được! Câu chuyện Ðế Minh, Lộc Tục phi lý vì chính bản chất những giòng sử ấy phi lý. Nó cũng phi lý vì phản bội lại triết lý ý thức hệ "con Rồng cháu Tiên" của dân tộc Việt.
Sự ra đời ngành khảo cổ đóng góp vào sử học, soi sáng một số vấn đề, khẳng định sự có mặt của dân tộc Việt trên đất nước Việt từ thời nguyên thủy. Nhiều vùng cư dân người cổ đại có mặt trên lãnh thổ Việt, ít nhất cũng đã khoảng năm chục nghìn năm. Các khám phá mới xương và sọ người cổ, công cụ sinh hoạt của họ có ở các nơi: Bình Gia, Lạng Sơn; núi Ðọ, Thanh Hóa; Thẩm Ôn, Nghệ Tĩnh; Sơn Vi, Việt Trì; Con Moong, Hòa Bình; Thẩm Khương, Lai Châu; Ðà Lạt, Lâm Ðồng; cùng rải rác các nơi: Vịnh Hạ Long, Nha Trang, Dầu Giây, Xuân Lộc, Ðồng Nai; và ở Gia Rai, Kontum v..v. nhiều nơi có chứng tích thời nguyên thủy đã có người sinh sống.
Huyền sử "con Rồng cháu Tiên" là sự giải thích trừu tượng sự có mặt những người Việt đầu tiên có trên đất Việt. Sự việc ấy muốn cho rằng xảy ra cách đây hàng chục nghìn năm hoặc lâu hơn hơn bao nhiêu nữa cũng được. Vì sự việc ấy chỉ là một truyền thuyết tưởng tượng, nhưng lại có giá trị như bản thông điệp thiêng liêng do nghìn đời đúc kết, lưu truyền từ các thế hệ có trước nối tiếp là các thế hệ về sau tương thân đoàn kết, tự hào truyền thống chủng tộc, để luôn luôn trường tồn và tiến bộ.
Nhìn ngược lại lịch sử giống Việt, cả về đất đai lẫn chủng tộc, từ năm 330 trước công nguyên trở về trước, các giống người Việt còn chia thành nhiều nước, nhiều vùng. Họ sinh sống trải rộng từ lưu vực hai bờ sông Dương Tử cho tới miền đất Lạc Việt của lưu vực các sông Hồng, sông Mã, sông Cả, xuôi về phía nam. Các giống dân Việt này có nhiều thành quách, lăng mộ, đền đài, cho mãi tới đời Hậu Hán mới dần bị mất hết các dấu tích (theo Việt tuyệt thư). Ở trước thời Xuân Thu nhà Chu có những nước lớn như Sở ở phía bắc sông Dương Tử, Việt và Ngô ở phía nam sông Dương Tử, đã thành lập quốc gia từ trước khi thực sự ở bên Tàu xuất hiện một quốc gia có danh xưng là nhà Chu. Những nước thuộc giống Việt có mặt sớm ở thời cổ có hệ thống cai trị triều chính nhiều thứ giống với nước Văn Lang của người Lạc Việt và khác với các nước ở vùng trung nguyên Trung Quốc có về sau như Tấn, Lỗ, Trịnh, Tống, Tề v..v... chứng tỏ các nước Sở, Ngô, Việt đều thuộc chủng tộc Bách Việt. Trong khi các nước ở vùng trung nguyên có những chức quan như: tướng quốc, tư đồ, tư khấu, tư nông, tư mã, thì tại các nước theo hệ thống Việt có các chức như: công tôn hùng, công tôn lạc, hùng tướng, lạc tướng, hùng hầu, lạc hầu... Ngay cả tước hiệu của vua cũng khác, vua của nhà Chu là tước "vương" thì vua của nước Sở lại là tước "hùng", vì vậy nên thời xưa tại nước Sở có những ông vua được gọi là: Hùng Thông, Hùng Dịch, Hùng Nghệ, Hùng Cừ...
Sự khác biệt giữa Lạc Long Quân và Kinh Dương Vương là:
- Lạc Long Quân là thủy tổ huyền sử giống Bách Việt.
- Kinh Dương Vương là ông vua đầu tiên có trong lịch sử thực tế của nước Văn Lang.
Lạc Long Quân có những công lao sự nghiệp vĩ đại đối với huyền sử: Trấn yểm Hồ Tinh, có truyền thuyết là Thi Hồ Trạch tức Hồ Tây (Hà Nội); trừ Mộc Tinh, có truyền thuyết tại miền Ngã Ba Hạc (Phú Thọ); diệt Ngư Tinh, có truyền thuyết là các đảo vịnh Hạ Long. Ðọc huyền sử tưởng như không có Lạc Long Quân không những giống nòi Việt không có mà ngay cả đất nước Việt cũng nhờ ông mới có hình dáng ngày nay. Ông giải thoát tai họa, trừ yêu ma, diệt thủy quái. Tất cả mọi người dân Việt lúc nào gặp nguy hiểm cầu gọi tới Lạc Long Quân thì ông là người cha hiện ra ngay để giúp đỡ, che chở. Tổng cộng các giá trị như: sinh ra dân, quyền năng, tài phép, linh dị, ân đức, tình cảm, mà nhân dân Việt dành trọn niềm tín ngưỡng đối với Lạc Long Quân, thực xứng đáng chính thức ông là thủy tổ dân Việt trong huyền sử. Ông cũng còn được coi là đấng thần linh siêu đẳng ngự trị cõi trời mây nước trong suốt chiều dài huyền sử Việt. Từ cõi trời mây nước Lạc Long Quân hiện thân thành hình người tác hợp với Âu Cơ là Tiên cõi đất thành đôi vợ chồng.
Ngoại cảnh  Đền Hùng
Người dân Việt ngày nay đi thăm đền Hùng miền Việt Trì, Phú Thọ, rồi ngược đường theo hướng đi lên Yên Báy, đi khoảng 40 cây số, rẽ về phía trái và vẫn trong phần đất Phú Thọ, sẽ tới xã Hiền Lương trên bờ nam sông Hồng, nơi đây có đền thờ bà Âu Cơ. Nhân dân miền này trong các dịp tết, lễ, có tục lệ gói một loại bánh có tên là "bánh vôi". Theo truyền thuyết: sau khi bà Âu Cơ chia tay chồng, bà cùng các con đi tới đây, bà dạy dân dệt vải, trồng mía, ép mía lấy mật, giã gạo nếp thành bột, ngào trộn chung với mật, gói bánh rồi cho vào nồi đun cách thủy thành "bánh vôi". Cũng tại các miền cư dân sống quanh đền thờ bà Âu Cơ có câu ca dao:
"Nga Mỹ có núi nhà xe,
Có hang con lợn, có khe ngòi rùa".
Sở dĩ có câu ca dao trên do nhiều đời dân lưu truyển câu chuyện: Vào thời thượng cổ, trước các đời vua Hùng có hai nhân vật thần thoại khổng lồ, có sức mạnh và to lớn vô cùng là ông Ðùng là người có thể tạo ra sấm chớp, mưa bão ở trên trời và bà Ðà là người có thể tạo ra những con sông lớn. Hai nhân vật khổng lồ này đã tạo dựng nên những hòn núi cao, những giòng sông, thác nước chảy mạnh, tạo ra các môi trường nuôi các loại thú. Có hai ngọn thác lớn ở miền này gọi là Thác Ông và Thác Bà đều do ông Ðùng và bà Ðà làm ra (nay danh địa Thác Bà được xây dựng thành đập thủy điện lớn, có thắng cảnh đẹp thu hút nhiều khách du lịch tham quan). Như thế tiền thân của huyền sử Việt, có thể là những nhân vật như: ông Ðùng, bà Ðà của truyền thuyết Việt và ông Thu Tha và bà Thu Thiên của truyền thuyết Mường.
Nguyên thủy huyền sử Việt cũng là nguyên thủy giải phóng và đề cao phụ nữ, có ở tính chất bình đẳng trong sự chia con. Việc Lạc Long Quân đem nửa số con sinh sống ở miền biển phía Nam cũng chỉ ra môi trường sinh sống của dân tộc trong trường tồn đất nước, sau này một phần lớn dân phải sống bằng nghề nông và các nghề đánh bắt, khai thác hải sản ở các hải đảo xa và các miền ven biển. Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt cũng nên coi như nghìn xưa tổ tiên giống Việt đã tiền định. Huyền sử cũng đã định đặt sẵn từ thuở mới có con người: vấn đề quốc kế dân sinh, dân tộc hùng cường trong tương lai, hẳn cũng phải là các công nghiệp, kỹ nghệ hàng hải khoa học tân tiến, to lớn, mưu cầu khai thác hải sản, đánh bắt thủy sản, chẳng những chỉ ở hải phận Việt Nam, sẽ còn vươn tỏa khắp nơi trên hải phận chung quốc tế. Thêm nữa, sức mạnh biển cả cũng còn là sức mạnh bảo vệ Tổ quốc.