Thứ Tư, 26 tháng 1, 2011

13 . Nữ Vương Phật Nguyệt

Truyện tích "Nữ Vương Phật Nguyệt" là huyền sử nữ chúa hồ Ðộng Ðình thuộc tỉnh Hồ Nam ở Trung Hoa, lại xảy ra vào thời Hai Bà Trưng là khi thời đại Hồng Bàng đã chấm dứt, nhưng cũng viết thành một chương trong sách này, vì các lẽ:
Thời đại Hai Bà Trưng là thời đại vận động phất cờ khởi nghĩa quy mô lớn, không cách thời Hồng Bàng quá lâu và Hai Bà dựng nền độc lập tự chủ của dân tộc Việt, có lãnh thổ quốc gia rộng tương đương với lãnh thổ thời nước Văn Lang lúc cường thịnh.
Thời đại Hai Bà Trưng là thời đại có tổ chức hệ thống chính trị và nề nếp đời sống nhân dân giống với thời đại Hồng Bàng nhất, so với các thời về sau.
Triết lý, tư tưởng nhân sinh cùng ý thức hệ vũ trụ của truyện tích "Nữ Vương Phật Nguyệt" có những nét đặc trưng và tự hào riêng có ở dân tộc Việt, khi chưa bị ảnh hưởng các tư tưởng Phật, Lão, Khổng.
Trước khi viết về "Nữ Vương Phật Nguyệt", xin được viết sơ lược về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng:
Hai Bà phất cờ khởi nghĩa điểm khởi đầu ở Cổ Lôi trang (nay là làng Hạ Lôi gần chân núi Ba Vì, có lúc giòng chảy của sông Nhị Hà vào mùa nước lũ chuyển giòng, đã chia làng, chia dân chạy nước lụt, thành hai làng Hạ Lôi ở cả về hai bên bờ sông, vì vậy nay ở hai tỉnh Vĩnh Yên và Sơn Tây tại mỗi tỉnh đều có làng Hạ Lôi), sau tập trung nhiều lực lượng tại làng Hát Môn cho tiện điều hành cả quân thủy lẫn quân bộ, rồi mới nhanh chóng tiến đánh Luy Lâu, thủ phủ cai trị của giặc Hán.
Do có sự liên kết, chuẩn bị bí mật nên địa bàn khởi nghĩa lan rộng ngay từ những ngày đầu. Tất cả có chín quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Uất Lâm (tức Quế Lâm), Thương Ngô, Nam Hải, Hợp Phố, Châu Nhai và Ðạm Nhĩ, tổng cộng có 65 huyện thành. Giao Chỉ là một trong số những quận lớn, lại cũng là quận đứng đầu cuộc khởi nghĩa có những huyện thành là: Mê Linh, Chu Diên, Long Biên, Liên Thụ, An Ðịnh, Cẩu Lâu, Khúc Dương, Bắc Ðới, Kê Từ, Tây Vu. Trong số 10 huyện này căn cứ khởi nghĩa quan trọng là hai huyện Mê Linh và Chu Diên, coi núi Ba Vì cùng với sông Hồng làm điểm tựa và là nơi xuất phát những mũi tấn công chính. Nhìn vào bản đồ miền Hoa Nam và đất nước Việt ngày nay, đích thực lãnh thổ cùng cư dân khởi nghĩa nổi lên trong hệ thống đất nước Hai Bà làm vua, có cương giới rộng gần ngang tầm với nước Văn Lang mà "Ðại Việt sử ký toàn thư" đã viết: "Khi Hùng Vương lên ngôi, dựng nước gọi là nước Văn Lang. Nước ấy phía đông giáp biển Nam; phía tây tới Ba Thục; phía bắc đến hồ Ðộng Ðình, phía nam tiếp với nước Hồ Tôn".
Lực lượng khởi nghĩa theo Hai Bà khiến hàng loạt các tên thái thú quan lại cai trị 9 quận của Hán triều: kẻ bị giết, kẻ chạy trốn, kẻ đầu hàng, thậm chí có kẻ khiếp sợ phải cải trang làm đàn bà chạy trốn như tên thái thú Tô Ðịnh coi quận Giao Chỉ. Oanh liệt hơn nữa là không phải chỉ có hơn hai vạn quân Hán sang trấn áp cuộc khởi nghĩa do Hai Bà lãnh đạo như sử Hán viết, thực sự có thể có hàng chục vạn quân Hán bị thảm bại trước sức mạnh quật cường của quân dân người Việt. Chứng cớ đích xác và đúng sự thực thì tới năm 49 sau công nguyên, sau khi tìm cách rút quân khỏi Giao Chỉ, tên giặc Mã Viện cùng với đám tàn quân còn sót lại cũng bị quân dân khởi nghĩa theo Hai Bà tại miền đất Ngũ Khê (Vũ Lăng) vây hãm, bị chết trận, chết vì bệnh đậu mùa, kể cả tên tướng Mã Viện cũng không thoát khỏi tử thần.
Dù đã trải qua khoảng hai nghìn năm, nhiều lúc có sự cấm đoán cũng không ngăn được các cư dân người Hoa gốc Việt sống ở các nơi thời xưa là lãnh thổ Hai Bà cai quản, nay không còn thuộc đất nước Việt, vẫn tưởng nhớ công ơn Hai Bà và các tướng sĩ của Hai Bà. Tại các tỉnh: Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Ðông, Hồ Nam không nhiều thì ít, nơi nào cũng có đền miếu thờ "đạo Hai Bà", hoặc thờ các tướng lĩnh của Hai Bà, con số có thể lên hàng nhiều trăm nơi thờ. Sự tôn thờ tưởng nhớ của dân chúng được nâng lên như một tín ngưỡng tôn giáo gọi là "đạo Vua Bà". Nếu muốn tìm hiểu thêm tâm tư người dân và hỏi họ: -Tại sao lại thờ "đạo Vua Bà" và Vua Bà là ai? Sẽ được những người am hiểu cho biết: - Thờ "đạo Vua Bà" là đạo của Trưng Vương người quận Giao Chỉ dấy quân chống bọn tham quan áp bức dân.
Theo lời người dân sống phía nam sông Dương Tử kể lại, từ trước năm 1949 nhiều nơi trong dân gian có tổ chức các nghi lễ "lên đồng" cũng giống như ở nhiều nơi tại Việt Nam thường tổ chức nghi thức lễ "lên đồng", nhất là đối với giới phụ nữ. Lễ tục này đã có từ rất lâu đời tại các vùng cư dân có các chủng tộc người Việt sinh sống. Qua các truyện tích như: thánh Gióng, Kim Qui, đều thấy thuật lại việc các vị vua lập đàn làm lễ cầu trời, rồi thấy ứng hiện lên một người có cử chỉ, lời nói giống như một vị thần nhân, nói ra những điều linh ứng, tương tự như sự linh ứng trong nghi lễ "lên đồng". Nếu những người dân miền Hoa Nam đã tôn trọng lễ "lên đồng" là đạo, tức là một thứ tôn giáo, thì tôn giáo ấy chắc hẳn đã có từ lâu đời, từ thời thượng cổ.
Trong một cuộc nghiên cứu, sưu tầm, phái đoàn thuộc Viện Pháp Á (tức Institut Franco Asiatique, sách này đã dẫn chung tài liệu tại chương 5. Ðất nước Tổ Hùng) vào hai năm 1978, 1979, họ đã tham quan hàng trăm nơi tại các tỉnh lưu vực phía nam sông Dương Tử (Trường Giang) có thờ Hai Bà Trưng và các tướng lĩnh của Hai Bà. Ðích thân vị Giám đốc Sự vụ Trung Hoa của Viện Pháp Á đã đọc được tại Thư viện bảo tàng di tích cổ của tỉnh Hồ Nam một bản tài liệu cổ được viết vào thế kỷ thứ tám, nói về "Sự tích Nữ Vương Phật Nguyệt" như sau:
"Ngày xưa Ngọc Hoàng Thượng Ðế ngự trên điện Linh Tiêu, có hai công chúa đứng hầu. Vì sơ ý hai công chúa đánh vỡ chén ngọc, Ngọc Hoàng Thượng Ðế nổi giận đày hai công chúa xuống hạ giới. Hai công chúa đi đầu thai được mấy ngày thì vị tiên lại giữ sổ trên thiên giới tâu rằng: có 162 vị tiên cũng đầu thai xuống hạ giới theo hai công chúa. Ngọc Hoàng Thượng Ðế thấy thế sợ hai công chúa làm loạn ở hạ giới, ngài mới truyền Thanh Y đồng tử đầu thai theo để dẹp loạn. Thanh Y đồng tử sợ địch không lại hai công chúa, có ý ngần ngừ không dám đi. Ngọc Hoàng Thượng Ðế truyền nhị thập bát tú đầu thai theo. Thanh Y đồng Tử sau là vua Quang Vũ nhà Hán. Nhị thập bát tú đầu thai thành hai mươi tám vị văn thần võ tướng đời Ðông Hán. Còn hai công chúa đầu thai xuống quận Giao Chỉ, vào nhà họ Trưng, chị là Trắc, em là Nhị. Lúc Trưng Trắc sinh ra có hương thơm đầy nhà, từ nhỏ đã thông minh quán chúng, sau lớn có sức mạnh bạt sơn cử đỉnh, được gả cho Ðặng Thi Sách. Thi Sách làm phản, bị thái thú Tô Ðịnh giết chết. Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa, được 162 anh hùng, liệt nữ các nơi nổi lên giúp sức, nên chỉ trong một tháng chiếm hết sáu quận của Trung Quốc ở phía nam sông Trường Giang là các quận: Cửu Chân, Nhật Nam, Giao Chỉ, Quế Lâm, Thương Ngô, Nam Hải (tiếp theo sau còn có thêm ba quận khởi nghĩa là Hợp Phố, Châu Nhai và Ðạm Nhĩ). Chư tướng tôn Trưng Trắc lên làm vua, thường gọi là Vua Bà.
Quang Vũ nhà Hán sai Phục Ba tướng quân Tân tức hầu Mã Viện và Long Nhương tướng quân Thân hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt Tổng Trấn hồ Ðộng Ðình đánh chặn, Mã Viện và Lưu Long bị đánh bại. Vua Quang Vũ truyền lệnh cho nhị thập bát tú tới nghênh chiến, tất cả cũng bị đánh bại. Nữ Vương Phật Nguyệt phép thuật tài giỏi vô cùng, một tay nhổ núi Nga Mi, một tay nhổ núi Thái Sơn, đánh quân Hán chết xác lấp sông Trường Giang và hồ Ðộng Ðình, oán khí bốc lên tới trời. Ngọc Hoàng Thượng Ðế sai Thiên binh, Thiên tướng xuống trợ chiến cũng bị Nữ Vương Phật Nguyệt đánh bại. Ngọc Hoàng phải sai thần Du Liệt sang Tây Phương cầu cứu Phật Như Lai. Ðức Phật sai mười tám vị Kim Cương ba nghìn La Hán tới trợ chiến cũng bị bại trận. Cuối cùng Phật truyền Quán Thế Âm Bồ Tát tham chiến, Nữ Vương Phật Nguyệt với Quan Âm Bồ Tát đấu phép ba ngày, ba đêm, bất phân thắng bại. Sau Quán Thế Âm thuyết pháp mới khiến Nữ Vương Phật Nguyệt giác ngộ, bà bỏ đi tu."
Cảnh tế thần linh tại một ngôi đền thuộc tỉnh
biên giới Lạng Sơn, nơi tiếp giáp lãnh thổ với nước Tàu
Ðối với bọn giặc Tần rồi giặc Hán, trước cũng như sau, việc chia cắt nước Việt thành quận, huyện, chẳng những tiện cho chúng về việc phân cấp hệ hành chính cai trị, còn chia cắt sức mạnh đoàn kết dân trong nước từ một khối thành những vùng nhỏ. Vì vậy đối với các quận để bảo tồn sức mạnh, người dân Việt coi nhau dù là ngưòi Nam Hải, Giao Chỉ hay Thương Ngô v..v. đã là người trong chín quận phải coi nhau là người chung một nước. Còn đối với các huyện người Việt thường bảo nhau tự lập người cầm đầu huyện là người Việt, vẫn gọi các chức huyện lệnh là các "lạc tướng" là chức hiệu có từ thời Hồng Bàng. Dân ngấm ngầm tìm cách không đóng thuế hay trốn vào rừng núi ở, nếu là các viên huyện lệnh do Tần hay Hán cắt cử. Vì vậy cai quản huyện Mê Linh là vị "lạc tướng" cha của Hai Bà Trưng và cai quản huyện Chu Diên là "lạc tướng" Ðặng Thi Sách. Trước khi khởi nghĩa cũng như khi cầm quân chống giặc Hán, thấy trong truyện tích các nơi ứng nghĩa, có nhiều nơi nói về công tác vận dụng của bà Trưng Nhị, tạo nên sức mạnh lòng dân Việt đoàn kết thương xót nhau thể hiện qua câu ca dao:
            "Bầu ơi thương lấy bí cùng!
             Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn".

Ðặc biệt nhất là đối với giới phụ nữ, khi được biết Hai Bà đang ngấm ngầm tuyên truyền, giao kết, huấn luyện, tổ chức việc khởi nghĩa, tưởng như mỗi người phụ nữ Việt đều muốn mau chóng hóa thân thành các nữ thiên thần, quyết chí diệt giặc giải phóng đất nước, giải phóng phụ nữ.
             Cử mục sơn hà vô Hán tướng;
             Thệ tâm thiên địa hữu Trưng Vương.

Ðó là đôi câu đối nói lên ý nghĩa các anh hùng liệt nữ cùng toàn dân Việt nhiệt tâm, tận lực hướng về cuộc khởi nghĩa: cho dù hệ thống cai trị của bọn tướng giặc dày đặc khắp nơi, ai ai mở mắt trông khắp núi sông cũng coi như không có bọn tướng giặc Hán; trong tâm can mọi người nguyện một lòng thề với trời đất chỉ biết có Trưng Vương.
Với ý chí yêu nước thương nòi đã được kết tụ, ngay từ đầu thế kỷ thứ nhất, của thiên niên kỷ thứ nhất theo công nguyên, những công dân Việt đáng tự hào, đáng vinh danh cả nữ lẫn nam chung sức một lòng quét sạch họa cường bạo xâm lăng mạo danh "con trời" chiếm cứ nước Việt. Họ thiết lập được một chế độ độc lập, có tính dân chủ, tự trị và phân quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp (dưới sự chỉ đạo: lập pháp do bà Trưng Trắc, hành pháp do bà Trưng Nhị, tư pháp do bà Xuân Nương) được gọi là chế độ "Hai Vua", ấy là một chế độ văn minh thời cổ, cả hàng nghìn năm cảnh lê dân chìm đắm trong bóng tối chủ nghĩa phong kiến, chưa thể có được!
Toàn dân Việt sống dưới chế độ "Vua Bà" mà lại có những hai vua, không cần biết tới những tên "thiên tử" bịp bợm, chuyên chế độc tài, thường là hôn quân vô nhân tàn ác, dù là kẻ nào, dù cai trị một nước lớn nào chăng nữa! Dân Việt nhìn thấy bọn thái thú, thứ sử cùng bầy đàn quân lính giặc Hán trốn chạy trong khởi nghĩa như loài chuột nhắt và những tên còn lại bị thương tích, bị ốm đau, đã đầu hàng đang sống chui rúc như bầy chó đói. Chúng đang ngước trông sự rộng lượng bao la cùng những tấm lòng thương người của người dân Việt tha tội và cứu sống chúng. Chế độ của các tộc Việt có cơ sở dân chủ "thôn làng tự trị" do các trưởng làng, già làng cai quản, trên có các lạc tướng, hùng tướng chăm sóc, trên nữa có các lạc hầu, hùng hầu giúp Hai Vua trông coi các việc chính trị, quân bị, đúng như bốn câu thơ đời sau truyền tụng, ca ngợi về thời Hai Bà Trưng:
"Một xin rửa sạch nước thù;
Hai xin lập lại nước xưa họ Hùng;
Ba kẻo oan ức lòng chồng;
Bốn xin vẻn vẹn thửa công lênh này".
Có cuộc khởi nghĩa sáng rực hào quang, các dân tộc Việt lại được âu ca đoàn kết, sống trong thanh bình với hệ thống tương giao kết nghĩa "ấn đồng thao xanh", có từ thuở khởi nghiệp thời đại Hồng Bàng. Hậu thế đã hai nghìn năm dài với hàng chục lần các thời bị ngoại xâm đe dọa: Hán, Ngụy, Tấn, Tề, Lương, cho tới Ðường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Tuy thế vẫn vĩ đại oai hùng cùng công đức sự nghiệp Hai Bà, trong tâm hồn dân Việt, vẫn mỗi ngày hào quang một rạng rỡ hơn thêm.
Ngay trên cả những miền đất ở thời cổ xưa cũng như ở thời Hai Bà vốn là dân, là đất thuộc lãnh thổ nước Việt cổ, dù nay không còn thuộc nước Việt, tại các nơi ấy tồn tại nâng cao sự nghiệp Hai Bà như một tín ngưỡng tôn giáo bất diệt bằng ba tiếng tôn danh: "Ðạo Vua Bà".
Phân tích lược qua giá trị triết học của sự tích Nữ Vương Phật Nguyệt còn lưu giữ tại tỉnh Hồ Nam đã thấy ý chí, sức mạnh, lý tưởng của giống nòi Việt không dễ gì một chủ nghĩa hay lý tưởng ngoại dị có thể khuất phục. Vì ngoài sức mạnh trường tồn của dân tộc thì lý tưởng từ nghìn xưa của dân Việt đã đầy đủ chân lý, giá trị nhân sinh, chứa đựng lòng nhân nghĩa, bác ái. Vì người dân phải sống trong khoảng không gian chứa tư tưởng "thiên tử" bịp bợm, trăm nghìn khuôn phép vô nghĩa lý áp đặt, nên mở đầu truyện tích cũng đã viết: "Ngọc Hoàng Thượng Ðế ngự trên điện Linh Tiêu, có hai công chúa đứng hầu...". Rồi đến bố cục sự tích Nữ Vương cũng phải giống như các sự tích thần phả của các cây bút "nòi" chủ nghĩa phong kiến "con trời" hoang tưởng.
Nhưng đến cái lý cuối cùng, cứu cánh của sự tích, thuyết "thiên tử" hoàn toàn bị hất bỏ. Nữ Vương Phật Nguyệt chỉ là một vị tướng của "Vua Bà", nhưng lại đánh bại bọn Mã Viện đệ nhất danh tướng lịch sử các vương triều phong kiến nhanh như phủi bụi. Rồi tất cả đám nhị thập bát tú là các tướng lưu danh thiên cổ của Hán cũng bị đại bại. Như thế toàn bộ tướng mạnh binh hùng của Hán Quang Vũ bị bại rồi còn gì nữa. Dường như pháp thuật của Nữ Vương Phật Nguyệt kể khắp từ trên trời cao cho xuống dưới toàn cõi thế ai cũng phải thua bà, vì một tay bà cầm núi Thái Sơn, một tay bà cầm núi Nga Mi nhổ lên như nhổ cỏ, tất nhiên khi bà ra tay thì xác giặc Hán chết phải lấp đầy cả hồ Ðộng Ðình và sông Trường Giang. Hàng vạn xác giặc Hán bị chết ấy oán khí bốc lên tận trời cao. Liệu trời cao có minh xét được rằng tội ác là do chính tên vua và triều đình Hán bắt lương dân vào lính đi cướp nước người? Nhưng không! Ngọc Hoàng Thượng Ðế lại sai Thiên binh, Thiên tướng từ trên trời xuống trợ chiến giúp bọn giặc xâm lăng. Nên Nữ Vương Phật Nguyệt cũng chẳng nề hà gì mà không đánh cho bọn Thiên binh, Thiên tướng sứt đầu mẻ tai tìm đường chạy trốn. Có lẽ vì ngồi ở trên cao quá, mà bầu trời mênh mông vô hạn, ông Ngọc Hoàng Thượng Ðế (do mấy ông nhà văn Tàu nặn ra) quên không nhìn thấy lương tâm cùng chân lý loài người đặt ở chỗ nào mà điều chỉnh, nên ông ấy không thấy cái sai của Hán Quang Vũ, ông ta lại sai thần Du Liệt sang Tây Phương cầu cứu Phật Như Lai. Thật khó hiểu và nên đoán là vì nể tình "trời, phật" giao hảo từ lâu, nên Phật đã truyền lệnh cho mười tám vị Kim Cương cùng ba nghìn La Hán xuống trợ chiến giúp bọn giặc Hán. Không có lẽ gì cả trời, cả đất, cả phương Ðông, cả phương Tây đều mù mịt u ám không loé ra được ánh sáng chân lý hay sao? Vì vậy nên Nữ Vương Phật Nguyệt cứ đánh tan tác mười tám vị Kim Cương cùng ba nghìn La Hán thua chạy, người thì bay lên trời, người chui xuống đất, lặn hướng Ðông, biến hướng Tây không còn ai, để cho cả trời và đất không thể mù mịt mãi, phải hiện ra ánh sáng chân lý bình minh hợp với ý nguyện toàn thể loài người. Nữ Vương Phật Nguyệt ngoài tước hiệu Nữ Vương bà còn có phật hiệu là Phật Nguyệt, có thể vì thế đức Phật Như Lai với phật nhãn của người, người tin rằng Nữ Vương Phật Nguyệt cũng là một vị phật siêu đẳng, nên người truyền đức Quan Thế Âm Bồ Tát tới gặp Nữ Vương Phật Nguyệt rồi tùy cơ Bồ Tát định liệu mọi sự. Khi Quan Thế Âm Bồ Tát đối diện cùng Nữ Vương Phật Nguyệt, hai ngài đều đem tất cả các pháp thuật cao cường, siêu đẳng ra quyết tâm hàng phục người dám đối địch với mình. Cuộc đấu phép vô tiền khoáng hậu này diễn ra suốt ba ngày ba đêm mà vẫn bất phân thắng bại. Cuối cùng Bồ Tát đành phải ngừng tay thu hồi các pháp thuật của người, rồi cùng Nữ Vương Phật Nguyệt hòa giải, bàn thảo tới các phương pháp cứu độ cho loài người sống trong thanh bình, an vui. Trong thâm tâm Nữ Vương Phật Nguyệt cũng tự biết dùng chiến tranh, dẫu cho là chiến thắng, cũng tạo sự sát hại nhiều sinh linh vô tội bị cưỡng bức vào chiến tranh, cũng không thể là phương thức cứu độ loài người, nên bà đã bỏ việc chiến tranh rồi đi tu.
Nữ Vương Phật Nguyệt đi tu, nhưng con đường chính đạo của bà không giống với phương pháp tu của Quan Thế Âm Bồ Tát. Nữ Vương tu theo "Ðạo Vua Bà". Cũng từ đó cư dân các dân tộc gốc người Việt sống tại lưu vực hai bờ sông Dương Tử, nhiều nơi lập các đền, miếu thờ Hai Bà Trưng cùng các tướng lĩnh của Hai Bà. Nếu có những người lưu tâm nghiên cứu, tìm hiểu kỹ những tinh hoa, triết lý, tư tưởng của "Ðạo Vua Bà", lại biết cải tiến, nâng cao các giá trị thánh thiện, loại dần những thấp kém, dị đoan, mê tín do bọn vua quan phong kiến kém tài tạo nên, tất nhiên "Ðạo Vua Bà" sẽ trở thành một tôn giáo tín ngưỡng ích lợi cho nhân quần xã hội.
Chân lý về vũ trụ và nhân sinh của dân tộc Việt, như đã viết ở chương "Bánh dầy bánh chưng" đã có giá trị là sự thực chân lý bao trùm mọi thứ đạo của cõi thế và gắn bó quan thiết với đất đai sông núi, với cuộc sống loài người cùng muôn loài, cùng vũ trụ bao la. Có thể lấy bài ca "Duy Tân" của phong trào "Ðông Kinh nghĩa thục" vào đầu thế kỷ hai mươi là quan niệm, trên một bình diện nào, điển hình cho "cách tu" của người Việt:
Phen này cắt tóc đi tu,
Tụng kinh niệm Phật ở chùa Duy Tân.
Ðêm ngày khấn vái chuyên cần
Cầu cho ích nước lợi dân mới là.
Tu cho mở trí dân nhà,
Nước ta độc lập dân ta phú cường.
Lòng thành thắp một nén hương
Nam mô Phật Tổ Hồng Bàng chứng minh.
Góc chùa Tây Phương tại Hà Tây, ngoài các mái cong
đặc biệt các khuôn tròn cửa sổ biểu tượng triết lý
âm dương đối xứng, không ở nơi nào có
Từ khi xảy ra cuộc chiến giữa quân Hai Bà đánh quân giặc Hán tại hồ Ðộng Ðình, rồi tới khi Nữ Vương Phật Nguyệt bỏ đi tu, thời gian về sau đã hình thành nên "Ðạo Vua Bà". Bản "Sự tích Nữ Vương Phật Nguyệt" lược thuật trên đây được viết vào thế kỷ thứ tám. Từ thế kỷ thứ nhất tới thế kỷ thứ tám là thời gian dài thích hợp cùng khuynh hướng cả loài người phát triển nhiều tôn giáo còn trường tồn tới ngày nay. Cũng từ qui luật tổng thể chung, "Ðạo" của Nữ Vương Phật Nguyệt là truyền nối sự nghiệp, công đức Hai Bà Trưng, nhưng thời đại Hai Bà Trưng là kế nghiệp thời đại Hồ⮧ Bàng. Lịch sử Việt để lại nền móng xây dựng, mỗi viên gạch lại được trau chuốt, chọn lựa qua thời gian kết hợp thành tòa lâu đài kiến trúc lý tưởng.
Nghệ thuật kiến trúc "Sự tích Nữ Vương Phật Nguyệt" đạt mức hùng, bi, thiện mỹ ở chỗ: phá đổ và vùi lấp thuyết "thiên triều bịp bợm", nhưng lại dùng ngay nó bị khuất lấp để xây dựng "Ðạo Vua Bà" lên trên. Loài người có thể ước mơ tới tương lai nào đó, cả loài người chung sống trong hạnh phúc và tiến bộ. Liệu điều mơ ước ấy có phải là tôn chỉ cùng là cứu cánh của "Ðạo Vua Bà" hay không?
Lý tưởng khởi nghĩa của Hai Bà không thích hợp với quan niệm độc tôn:
Các sách "Xuân Thu" của Khổng Tử và "Tả thị Xuân Thu" của Tả Khâu Minh đều có những chỗ viết chung một ý:
"Trời sinh ra dân, đặt ra vua, ra thầy, đều để giúp Thượng Ðế". Hoặc: "Trời làm chủ thiên hạ, vua nối trời mà cai trị dân. Kẻ chịu mệnh trời mà cai trị dân là thiên tử".
Kinh Lễ trong thiên "Vương chế" đưa ra nguyên tắc bất bình đẳng giữa các nước khác so với Trung Hoa là:
"Ðông phương viết Di. Tây phương viết Nhung. Nam phương viết Man. Bắc phương viết Ðịch." (Dân ở phương Ðông gọi là giống Di. Dân ở phương Tây gọi là giống Nhung. Dân ở phương Nam gọi là giống Man. Dân ở phương Bắc gọi là giống Ðịch). Với quan niệm các câu nói này, người Trung Quốc xưa đều coi những người sống ở bốn phương không phải là dân Trung Quốc đều là các giống: mán, mọi, rợ, hồ, chưa đầy đủ các tiêu chí để được gọi là người! Còn xét theo chiết tự chữ nho, cả bốn chữ: Di, Nhung, Man, Ðịch đều thuộc trong các bộ chữ ám chỉ các giống: sâu, bọ, điểu, thú, mà thôi!
Sách Luận Ngữ ở thiên Quí thị có chỗ viết:
"Khổng Tử viết: Thiên hạ hữu đạo tắc lễ, nhạc, chinh, phạt, tự thiên tử xuất. Thiên hạ vô đạo, tắc lễ, nhạc, chinh, phạt, tự chư hầu xuất. Tự chư hầu xuất, cái thập thế hy bất thất hỹ! Tự đại phu xuất, ngũ thế hy bất thất hỹ! Bồi thần chấp quốc mệnh, tam thế hy bất thất hỹ! Thiên hạ hữu đạo tắc chính bất tại đại phu. Thiên hạ hữu đạo tắc thứ nhân bất nghị". Tạm dịch: "Khổng Tử nói: Thiên hạ có đạo thì lễ, nhạc, chinh, phạt đều do thiên tử mà ra. Thiên hạ không có đạo thì lễ, nhạc, chinh, phạt do các nước chư hầu mà ra. Từ các nước chư hầu mà ra, hẳn trong vòng mười đời nước bị mất. Từ quan đại phu mà ra, trong vòng năm đời nước bị mất. Các quan coi phụ việc nước mà lộng quyền, trong vòng ba đời nước bị mất. Thiên hạ có đạo việc chính trị không do quan đại phu. Thiên hạ có đạo người dân thường không được nghị bàn".
Thực tình chưa chắc những lời nói trên đã là của Khổng Tử, hay chỉ là lời của bọn hủ nho, quan lại nô bộc nền quân chủ chuyên chế phản quyền dân, quyền người đã tự nặn ra thứ tư tưởng trên, rồi gán cho là do Khổng Tử nói. Tuy nhiên cũng nên xét về giá trị những câu nói đó, vì nó đã đè nặng nhiều đau thương lên kiếp người Ðông Á. Thân phận con người sinh ra giữa cõi trời đất, nếu cứ như số đông các thánh nhân, triết gia, văn nhân ở Trung Hoa, châu đầu phục vụ cho ông thiên tử, khom lưng quì gối trước cái ngai vàng, thì trong bầu trời bao la minh bạch của cụ Lang Liêu người Việt đã xác định, xét ra những cái lý về thiên tử đã chẳng minh bạch chút nào. Bầu trời lại bị vẩn đục, vì ở đó lại cũng có một vị Ngọc Hoàng Thượng Ðế ngồi trên ngai vàng, có trăm quan văn võ, đầy đủ nghi vệ triều đình, giống như hệt những gì mà ông vua Tàu được thụ hưởng. Sự tưởng tượng ấy cũng chung qui chỉ để định đặt ra "luật trời", một thứ mô hình phiên bản, dành nhiều đặc quyền cho thiên tử ở dưới trần gian. Còn thân phận của muôn triệu dân đành cam chịu cảnh lầm than hèn mọn, do chế độ tạo ra biết bao tệ nạn tham quan, hà khắc, bất công, phi lý. Hỏi như thế còn đâu là quyền công dân? Còn đâu là quyền con người?
"Ðạo Vua Bà" được mọi người dân tín ngưỡng là do lòng dân ước mơ được sống trong xã hội loài người không còn cảnh bịp bợm phi nhân, phi nghĩa.
Ðiều bi thiết vô cùng thương tâm là chính đám người lương dân sống đáy cùng xã hội bị đày đọa bóc lột, lại là những người phải chịu tai họa nhiều nhất, khi chế độ phi nhân lung lay. Họ bị cưỡng bách ra ngoài mặt trận lao vào đất chết để phải đàn áp các phong trào khởi nghĩa, hay phải đi xâm chiếm các nước lân bang chỉ để củng cố vững vàng và thỏa mãn tham vọng của tên thiên tử cùng chế độ phi nhân nghĩa. Do đó dù Nữ Vương Phật Nguyệt thắng bọn Mã Viện, Lưu Long, lại rất đau lòng nhìn thấy xác chết quân giặc lấp đầy cả hồ Ðộng Ðình và sông Trường Giang, nên Nữ Vương Phật Nguyệt gác ra ngoài chuyện chiến tranh, chiến thắng. Người đi tu để tìm chân lý mới cho cuộc sống con người. Lịch sử để lại những hình thành của lịch sử, các thế hệ sau nên xây dựng, tô thắm lịch sử, phục hưng những gì đích thực lịch sử, không nên xuyên tạc, bôi nhọ, làm rối loạn, phức tạp sự thừa kế lịch sử nhằm thỏa mãn những tham vọng phi nhân, phi nghĩa. Vấn đề hệ trọng đặt ra đối với tuyệt đại đa số những người Hoa Nam vốn gốc là dân Việt và những người Việt sống trên đất Việt ngày nay, đều cần nhớ là dù là Việt hay Hoa cũng đều chung ruột thịt huyết thống, phải thương yêu nhau bằng tình ruột thịt huyết thống. Khái niệm quốc gia đa số thường gồm nhiều chủng tộc. Khi hai quốc gia chung biên giới lại có nhiều cư dân chung một chủng tộc sinh sống ở cả hai phía nơi phân cách biên cảnh, ý nghĩa cao đẹp nhất là nhân dân hai quốc gia Việt, Hoa phải loại bỏ mọi sự tranh chấp bất hòa, dù chỉ là sự mưu chiếm lấn một vài trăm cây số vuông đất biên cương hoặc tham lam nhận chủ quyền vô lý ở một vùng biển, vài hòn đảo hay gây xáo trộn bất ổn biên giới. Tốt nhất, giới cầm quyền hai nước nên chú tâm vào việc nâng cao dân sinh, dân trí và tình thương yêu lân bang để nơi ranh giới quốc gia cũng là nơi kết nối tình huyết thống ruột thịt.
Nhận định cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng cùng truyền thuyết Nữ Vương Phật Nguyệt tức vị nữ Chúa hồ Ðộng Ðình cộng với tín ngưỡng Ðạo Vua Bà trải qua lịch sử kéo dài cho tới ngày nay, khiến mỗi công dân người Việt không thể không liên tưởng nghĩ: - Ðã có biết bao nhiêu cuộc vận động, bao nhiêu cuộc khởi nghĩa và kháng chiến hào hùng đồng loạt diễn ra dưới thời đại Hai Bà Trưng và truyền lại ý chí bất khuất mãi mãi cho hậu thế ra sao? Những cuộc khởi nghĩa tranh hùng ấy đã bị lịch sử ngoại xâm xuyên tạc, đã bị bụi thời gian che khuất mất bao hào quang?

(Chương 13. Nữ Vương Phật Nguyệt cũng như ở chương 5. Ðất Nước Tổ Hùng, tác giả khi viết có trích dẫn, tham khảo bài diễn văn của Giám đốc Trung Quốc Sự Vụ thuộc Viện Pháp Á (Institut Franco Asiatique) đọc vào dịp khai giảng niên khóa học 1991 - 1992 của Viện Pháp Á, nguyên văn tiếng Pháp, do Tăng Hồng Minh dịch sang Việt ngữ).