Thứ Năm, 27 tháng 1, 2011

Vương Đàm



Những dòng thơ đáng nhớ

NHỚ ƠN TỔ HÙNG

Cao vút trời xanh sáng nghiệp Hùng,
Hào quang rạng rỡ thắm non sông.
Trăm con nên mọi người chung Tổ,
Một bọc nào ai kẻ khác lòng.
Tưởng nhớ quốc hồn mau tiến bộ,
Say mê ngoại thuyết ắt suy vong!
Yêu dân, yêu nước, yêu đồng loại,
Là nghĩa muôn đời gốc Lạc Long!

VƯƠNG ÐÀM


  

Anh hùng Vô Danh

Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mông mênh.
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước.
Họ là kẻ từ nghìn muôn thuở trước
Ðã phá rừng, xẻ núi, lấp đồng sâu,
Và làm cho những đất cát hoang vu,
Biến thành giải sơn hà gấm vóc.
Họ là kẻ không nề đường hiểm hóc,
Không ngại xa hăng hái vượt trùng sơn,
Ðể âm thầm chuẩn bị giữa cô đơn,
Cuộc Nam Tiến mở giang sơn lớn rộng.
Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng,
Ðã xông vào khói lửa quyết liều thân
Ðể bảo vệ tự do cho Tổ Quốc.
Trong chiến đấu vượt qua muôn khó nhọc,
Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan.
Người thất cơ đành thịt nát xương tan!
Nhưng kẻ sống lòng son không biến chuyển,
Và đến lúc nước nhà vui thoát hiểm,
Quyết khước từ lạc lộc với vinh hoa.
Họ buông gươm quay lại chốn quê nhà
Ðể vui sống cuộc đời trong bóng tối.
Họ là những anh hùng không tên tuổi,
Trong loạn ly như giữa lúc thanh bình
              Bền một lòng dũng cảm chí hy sinh,
Dâng đất nước bằng mối tình trong sạch.
Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách;
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên;
Tuy mồ hoang xiêu vẹo dưới trời quên;
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật.
Nhưng máu họ đã len vào mạch đất,
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông,
Và Anh Hồn Chung với tấm tình trung
Ðã hòa hợp thành Linh Hồn Giống Việt.


               ÐẰNG PHƯƠNG

          


       Chiến thắng Nguyên Mô

  Bọn Thát Ðát* lũ chiến binh tàn bạo,
Vó ngựa dầm màu đỏ máu loài người;
Từng đạp lên những xác chết, đầu rơi.
Lừng chiến thắng khắp hai trời Âu, Á.
Phải ngừng lại! Phải cúi đầu tất cả!
Vì Việt Nam có Hưng Ðạo Ðại Vương,
    Dân Việt Nam dũng cảm hùng cường.
    Một sức mạnh thành muôn ngàn sức mạnh.
    Ngột Lương Hợp Thai cuốn cờ trốn tránh.
    Thoát Hoan chui núp bóng tối ống đồng.
    Gần một triệu quân, ba đợt tấn công
    Tự thiêu xác trước lửa hùng nước Việt.
    Bọn xâm lăng như đi vào cõi chết,
    Hốt Tất Liệt đành chuốc nhục nghìn thu.
    Mỗi cuộc giao tranh quét sạch giặc thù,
    Quân nước Việt chỉ cần năm, bảy tháng.
    Chiến thắng hiên ngang, hào quang xán lạn.
    Còn sử nào vinh hiển được hơn đâu?
    Diệt giặc ác xứng đáng lá cờ đầu.
    Chặn bạo ngược cứu cả miền Nam Á.
           Triều đình Nguyên run lên vì chuyện lạ:
    Nước Việt Nam sao lại quá anh hùng!
    Ngừng đánh Nhật Bản. Hoãn tiến phía Ðông.
    Dồn lực lượng chinh Nam đòi nợ máu.
           Nhưng lũ giặc tan tành như mộng ảo:
    Máu thành sông, thây nghẹt Bạch Ðằng Giang.
           Hỡi bọn Bắc xâm, bành trướng bạo tàn!
           Nhớ thất bại đừng bao giờ lập lại.
           Mộng cướp nước chỉ là trò man mọi,
           Không thể nào thắng một nước văn minh,
           Giàu tình thương cùng yêu chuộng hòa bình.
           Nhưng vững mạnh hơn cả nghìn non Thái.
           Việt Nam ấy! Muôn đời còn mãi mãi.

          VƯƠNG ÐÀM
___________
*Thát Ðát: dịch âm từ chữ Tarta, tên bộ lạc chính thống trong quân Mông Cổ.

Tài liệu tham khảo




An Nam chí lược
&    Lê Tắc
An Nam chí
&    Cao Hùng Trưng
Báo Cực truyện
&    Hoàng Tham
Chiến quốc sách
&    Lưu Hướng. Giản Chi dịch
Ðại Việt sử ký toàn thư
&    Ngô Sĩ Liên và các sử thần đời Lê Thánh Tông
    soạn Nhượng Tống dịch
Ðại Nam quốc sử diễn ca
&    Lê Ngô Cát
Ðịa chí Vĩnh Phú
&    Sở Văn hóa Thông tin Vĩnh Phú
Giao Châu ký
&    Hoàng Tham
Hậu Hán thư
&    Phạm Việp
Hoàng Việt Giáp tý niên biểu
&    Nguyễn Bá Trác
Khâm định Việt sử thông giám cương mục
&    Phan Thanh Giản, Phạm Xuân Quế và các sử
    thần đời Tự Ðức soạn
Khổng học đăng
&    Phan Bội Châu
Khổng Tử tiểu truyện
&    Ðoàn Trung Còn
Lam Sơn thực lục
&    Nguyễn Trãi biên soạn, Lê Thái Tổ đề tựa, 
         Mạc Bảo Thần dịch Tân Việt SG xb
Lão Tử
&    Ngô Tất Tố
Lịch sử thế giới
&    Nguyễn Hiến Lê
Lịch sử triết học Ðông Phương
&    Nguyễn Ðăng Thục
Lĩnh Nam chích quái
&    Trần Thế Pháp sưu tầm,Vũ Quỳnh hiệu đính,
    Lê Hữu Mục dịch. Khai Trí xuất bản
Lĩnh Nam di thư
&    Âu Ðại Nhâm
Luận Ngữ
&    Khổng Tử
Lược đồ văn học Việt Nam
&    Thanh Lãng
Mạnh Tử quốc văn giải thích
&    Ðông Châu
Mặc Tử
&    Ngô Tất Tố
Nam Việt chí
&    Thẩm Hoài Viễn
Nguồn gốc Việt tộc (tư liệu)
&    Phạm Trần Anh
                  Nho Giáo  
&    Trần Trọng Kim
Ngoại sử ký
&    Ðỗ Thiện
Ô Châu cận lục
&    Dương Văn An
Phật giáo triết học
&    Phan Văn Hùm
Sử ký
&    Tư Mã Thiên, các bản dịch của Nhượng Tống,
    Giản Chi
Sài Gòn năm xưa
&    Vương Hồng Sển
Thượng Thư
&    Khuyết Danh
Tiền Hán địa lý chí
&    Khuyết Danh
Tiền Hán thư
&    Ban Cố
Truyền thuyết Hùng Vương
&    Hội Văn Học Vĩnh Phú
Tuyển tập thơ Mường
&    Sở Văn Hóa Thanh Hóa
Việt Ðiện u linh tập
&    Lý Tế Xuyên, Lê Hữu Mục dịch, nhà sách 
         Khai Trí xuất bản
Việt lý tố nguyên
&    Kim Ðịnh
Việt Nam phong tục
&    Phan Kế Bính
Việt Nam sử lược
&    Trần Trọng Kim
           Việt tuyệt thư    
&    Hoài Nam Tử



15. Lý tưởng loài người

Loài người cần tự vượt thoát ra khỏi tầm quan sát, hệ lụy cuộc sống nhiều điều còn thấp kém, vươn tới xã hội loài người có tư tưởng, trình độ văn minh, khoa học tiến bộ, kết hợp cùng ý chí, nghị lực và lương tri, đạt chân lý là hạnh phúc chung cả nhân loại. Chỉ tới lúc ấy mới thực sự mở ra tương lai tốt đẹp.
Nhìn vào khoảng vũ trụ bao la với vô hạn các hành tinh, trong đó có trái đất, liệu trái đất có được là hạt bụi nhỏ so với khoảng không gian vô cùng vô tận? Sự hiện hữu của con người như dấu chấm ảo ảnh, có hay không tùy theo quan điểm mỗi hướng ý thức. Như cụ Lang Liêu của Việt Nam đã khẳng định về thời gian trong bánh dầy bánh chưng bánh dầy không có nhân có nghĩa bánh dầy tức vũ trụ bao la không có bắt đầu và sẽ cũng không có kết thúc. Vũ trụ trường tồn vô tận. Ðem cái hữu hạn dù thời gian kéo dài bao lâu cũng không thể sánh với mảy may thời gian chớp mắt của vô hạn được. Ðem một phần nhỏ vô hạn sánh bằng cái hữu hạn, tất cái vô hạn chẳng còn là vô hạn nữa. Nếu có, đời sống con người cũng chẳng giá trị gì so với vũ trụ vô cùng bao la. Nếu không, sau khi con người chết đi, dù thiêu đốt hay chôn vùi, những nguyên tử kết hợp thành con người vẫn mãi còn tồn tại. Những điều gì con người biết về vũ trụ bao la rất hạn hẹp và những điều gì con người chưa biết về vũ trụ cũng là một vũ trụ chứa chất kiến thức vô cùng bao la. Cùng với sự khám phá kiến thức về vũ trụ để mưu sinh trong tiến bộ, con người luôn luôn cần đặt ra giải pháp đạt mục đích: con người phải được sống thanh bình hạnh phúc, thiên nhiên phải đẹp và tốt lành. Loài người không có quyền tự sát bằng cách hủy diệt các sinh thái nuôi sống chính mình và cũng không có quyền làm ô nhiễm môi trường để rồi chết ngạt trong đó.
Lô cốt chiến tranh chế ngự  một cổng thành cổ kính

Lịch sử loài người đã có những xung đột tàn sát diễn ra trong đồng loại, đồng thời cũng có những tiến bộ để hợp quần. Sự tàn sát đồng loại giữa loài người, có nhiều lúc khủng khiếp, trong muôn loài sống trên hành tinh này có nhiều loài vật kém lý trí loài người nhưng không tàn sát nhau, trong khi có lý trí như con người lại nhẫn tâm tàn sát, hủy hoại cuộc sống lẫn nhau nhiều hơn nhiều loài vật khác.

Cho tới thế kỷ thứ hai mươi mốt, loài người vẫn còn những đối kháng do những nguyên nhân cách trở địa lý, chủng tộc, bất đồng trình độ dân trí, mức sống xã hội, khác nhau tín ngưỡng, đối đầu tư tưởng hay ý thức hệ cùng các chênh lệch quyền lợi và dị biệt về tập quán phong tục, văn hóa. Ở mỗi nguyên nhân đều có thể gây ra chiến tranh lớn. Có khi chính vì những chủ nghĩa, tín ngưỡng khác nhau người ta đưa ra với mục đích mong loài người tiến bộ, thanh bình thì ngay chính vì thế, tạo ra các xung khắc, người ta lại nhẫn tâm giết nhau trong rừng bom biển đạn, bằng các loại vũ khí khoa học vô cùng nguy hiểm. Tiến bộ khoa học có thể khiến loài người chiến tranh để tự sát. Nhưng mặt khác người ta cũng hy vọng với tiến bộ văn minh khoa học có khả năng tạo cho loài người có triển vọng hòa đồng thống nhất trong thanh bình, đem lại cho loài người nhiều hạnh phúc.
Tình trạng một công dân được coi là tốt khi sống trong chế độ này, có thể anh ta bị coi là phạm tội nếu sống trong chế độ khác. Trong cuộc sống ở đời một con người, có lúc con người bị cưỡng bức phải hành động, phải sống với luật sống mà các chế độ trước và sau chế độ mà người đó đang sống lại có những khuynh hướng, luật lệ trái ngược lại. Chân lý của một miền nào đó được mọi người tuân hành ca ngợi, có khi chỉ cách một giòng sông hay một dãy núi lại bị kết án là tà thuyết. Cũng có thể chân lý bị đảo ngược sau một đêm bạo loạn, đảo chính lật đổ chế độ. Thậm chí có khi chân lý lại chỉ là hệ thống triết lý ngụy tạo rất phi chân lý, với nhiều xảo thuật đã lừa dối được nhiều người, khiến xã hội chìm đắm trong lạc hậu, bạo ngược. Một thanh niên nhiệt tâm yêu nước, hăng hái xông ra trận tuyến giết quân thù, nếu anh ta được sinh ra ở bên kia biên giới chiến tuyến, chắc chắn anh ta cũng đang muốn giết con người mà thực tại đang là anh ta. Nhân loại sống trong hỗn loạn tràn ngập phi lý. Lương tri, lương tâm, tình cảm đích thực của con người nhiều lúc, nhiều nơi, đã không có đất sống. Những hận thù kéo dài trong lịch sử loài người sẽ tồn tại mãi, nếu không dập tắt được những đố kỵ, ngu dốt và tham vọng, để loài người biết ăn năn sửa chữa các sai lầm và cũng biết khoan dung, giáo hóa, lắng nghe và cảm thuận cho nhau.
Chất liệu xây cất ngôi nhà chung cho loài người là những giá trị hầu hết đã có sẵn trong lịch sử. Những giá trị ấy phù hợp và đã từng thành công ở từng miền, dù giữa chúng cũng có những dị biệt, đôi khi còn tạo ra những đối kháng. Nhưng với ngay cả những dị biệt đau xót, không nên có ấy cũng lại là cần thiết góp kinh nghiệm giúp vào việc hòa đồng, nếu nhận định được chính những dị biệt là những điều kiện phát hiện những lầm lẫn, thiếu sót từ các giá trị khác nhau. Sự tiến hóa sẽ, tới lúc nào đó, đủ khả năng phân tích và trọng tài cho mọi dị biệt, tìm ra mẫu số chung.
Nhìn các giá trị tư tưởng trong quá khứ, hy vọng thấy được nhiệt tâm loài người, dù sống ở đâu và ở bất cứ thời đại nào, con người cũng luôn luôn mong muốn được sống hòa nhịp cùng mọi trái tim đồng loại.
Một trong những nền giáo lý cổ của nhân loại là giáo lý Bà La Môn đã tạo nền cho triết lý Phật giáo và Ấn Ðộ giáo. Trước khi Thích Ca ra đời rất lâu, triết lý Ấn Ðộ coᠼ/b>sức lý giải linh hồn và thể xác con người, chia ra nhiều khuynh hướng nhận định. Bà La Môn thờ đấng tối thượng Brahma là ngôi vị trọng tài và điều hòa cho hai vị thần Vishnon và Shiva luôn luôn xung khắc, tượng trưng cho âm, dương và thiện, ác. Kinh Vệ Ðà của Bà La Môn, ngoài tín lý tôn giáo còn được coi là áng văn chương có giá trị nổi tiếng, khiến người ta yêu thích tìm hiểu, tôn thêm phần giá trị Bà La Môn. Tín lý của đạo giáo này khẳng định cứ khoảng ba nghìn năm sẽ có một vị phật ra đời. Vì vậy có lúc khi còn tại thế, Thích Ca muốn phủ nhận mình là một vị phật, chỉ muốn mọi người nhìn ông như một người thường, như thế dễ tìm ra chân lý giác ngộ hơn. Nhưng mọi người xung quanh vẫn mang nặng định kiến coi ông là đấng Bồ Tát siêu việt hoặc là vị Phật thượng đẳng, ý thức được mọi cõi khổ đau của con người, tìm ra các căn nguyên gây khổ để chấm dứt mọi nỗi khổ nạn ngay từ căn nguyên. Thích Ca nói tới các luận điểm: thập nhị nhân duyên, bát chính đạo và theo truyền thuyết có tới bảy vạn bốn nghìn phép tu. Những pháp môn của Thích Ca, cho tới nay chẳng có ai hiểu tường tận được tất cả ra sao. Ða số tín đồ theo phương pháp tam qui ngũ giới, lo tu tâm dưỡng tính diệt mọi tham vọng phát sinh từ ngũ uẩn, hầu như coi thể xác con người là nguồn gốc xuất phát mọi dục vọng thấp hèn, có tu con người mới đạt tới giác ngộ cao quí, có tu mới diệt được ham muốn thấp hèn, đố kỵ, tranh chấp. Sự giới sát, mục đích tạo lòng từ bi, song có những người áp dụng vào đức tin một cách quá đáng. Họ không dám sát hại cả những côn trùng có hại cho đời sống con người. Nếu mọi người tu theo giới sát một cách ngặt nghèo thì ngoài sự hạn chế nhu cầu sinh hoạt tiến bộ, có lẽ loài người còn phải nhường chỗ cho ác thú ngự trị, làm chủ trái đất. Vả lại người trồng lúa không thể không tìm cách giết các loài sâu phá hại mùa màng. Người bị bệnh cũng phải dùng thuốc tiêu diệt các loại vi trùng, sâu độc gây nên mầm bệnh. Thiết tưởng sự giới sát cũng mất hết ý nghĩa, nếu một số người tu theo đạo Phật lại ăn các loại thực phẩm như: dưa, chao, dấm, vì ở ngay trong các thực phẩm này có chứa vô vàn các loại vi sinh vật. Thực ra Phật Thích Ca đưa ra nhiều phương pháp tu chỉ để phổ cập sự giác ngộ tâm tính tới nhiều người sống ở nhiều cảnh sống, có trình độ, tư tưởng khác nhau. Ông muốn mọi người theo lời ông rồi tự tìm ra phương pháp thiện tâm đến với cõi vĩnh hằng, chân như. Ông cũng muốn mọi người quán thông được lẽ tự tại, tránh mọi tranh giành xâu xé, biết hợp quần, con người không tự đánh rơi mất bản thân, không bỏ mất trí tự giác, không bị lệ thuộc vào ngoại cảnh, yêu đời và dũng cảm trong cuộc sống. Khi gần tới ngày chết, ông ân cần nói với các đệ tử: "Ta chẳng có gì để lại cho các ngươi. Các ngươi cũng chẳng có gì cần ở ta, hãy coi ta như chiếc bè chở các ngươi qua sông, kẻ nào bám giữ theo chiếc bè sẽ không qua sông được". Ước mong rằng các tu sĩ Phật giáo quan tâm tới thuyết tinh tiến của đạo Phật, không cố bám vào những ý thức quá cũ, để đưa loài người tới văn minh tiến bộ, giải thoát mọi khổ nạn.
            Chân lý cao cả nhất định là : cao trào Phật Giáo trên thế giới tích cực nâng cao các hoạt động : giáo dục, y tế, xã hội, bảo vệ môi trường v..v. cùng với tình thương bao la bản nhiên sẵn có, tất sẽ là thành công lớn của Phật Giáo.
Đức Phật Thích Ca
Các huyền thoại về Phật Thích Ca có rất nhiều, hậu thế có thể cho ông là đấng phật, tiên tưởng tượng, nếu người ta không khám phá được tại thành Ca Tỳ La Vệ những di chỉ và chữ khắc trên đá nói về thân thế cùng sự nghiệp Thích Ca. Các di tích trên được khắc trên đá cách nay khoảng 2.300 năm vào đời vua A Dục là vị vua trị vì đất nước gần nơi đức Thích Ca ra đời và chỉ sau vài trăm năm. Giá trị triết học của Phật giáo có nhiều lý luận khúc chiết cao siêu. Cõi vĩnh hằng, chân như mà con người mong ước tu dưỡng để tới được cũng khó có thể có trong trí tưởng tượng hợp với thực tế. Vì cả khoảng vũ trụ bao la mà con người ý thức được, kể cả những nhóm hành tinh sống lâu hàng tỷ tỷ năm, cũng không thể coi là vĩnh hằng vô thủy vô chung. Mọi vật đều nằm trong định luật có khởi điểm sinh ra tất có lúc phải mất đi, hữu hình tất hưu hoại, đều biến thiên trong tồn tại. Liệu có phải cái vĩnh hằng của Phật cũng chính là khái niệm vũ trụ bao la vô cùng, bất sinh bất diệt của cụ Lang Liêu thời đại Hồng Bàng ở nước Việt chăng?
Quan niệm Phật giáo có ở một số người, thường chú trọng tới việc trì tụng cầu siêu cho người chết, còn khi con người sinh ra phải đấu tranh với cuộc sống bằng ý chí, nghị lực với những tiến bộ mọi mặt lương tâm, lý trí, khoa học, kỹ thuật v..v... để tồn tại hợp theo lẽ sinh tồn, thường ít thấy được lưu tâm giáo dục, huấn luyện. Ðiều này là một trong các yếu điểm của một số người theo đạo Phật, đồng thời cũng còn là tập quán phong tục chậm tiến của nhiều nơi trên hành tinh. Nếu người ta biết giảm bớt đi thực nhiều các phí tổn vô ích trong việc cầu nguyện, lễ tục tống táng người chết, chuyển thành các phúc lợi phụng sự thiết thực cho tương lai cuộc sống, chắc hẳn loài người đã tiến thêm nhiều lãnh vực cao cả hơn.
Dân tộc Do Thái (Israel) buổi đầu sống du mục, có bản chất thông minh và dễ thích ứng với các hoàn cảnh khó khăn. Vào thời gian trước công nguyên trên một nghìn năm, họ tạm ngừng sống du mục, sống nhờ trong lãnh thổ Ai Cập. Khi dân Ai Cập bị dân Hyksos xâm lăng, dân Do Thái ở vào thế phải cộng tác với người Hyksos. Tới lúc dân Ai Cập dành lại được quyền độc lập tự chủ, oán hận người Do Thái phản bội, đã đầy đọa và bắt người Do Thái làm nô lệ. Dân Do Thái phải trốn cảnh nô lệ, phải trải qua nhiều gian nan khổ ải rồi định cư tại Palestine và xây dựng ngôi đền vĩ đại Jérusalem, tôn thờ đấng Yahvé (Jéhovah) tức là đấng thượng đế tối cao đối với họ. Các cơn bão tố vẫn không ngừng trút lên đầu dân Do Thái. Ðất nước nhỏ bé Do Thái hết bị Ba Tư, Hi Lạp, La Mã thay phiên nhau chiếm cứ rồi lại bị Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ thống trị. Triền miên sống trong cảnh vong quốc, người Do Thái bỏ nước sống lang thang phiêu bạt khắp các nước miền Trung Ðông, Âu Châu cùng nhiều nơi khác, tâm hồn họ luôn luôn hướng về ngôi đền Jérusalem như một thánh địa thiêng liêng.
Từ hoàn cảnh lịch sử khắc nghiệt, lại trải qua nhiều gian khổ phiêu bạt, sống nhờ và vong quốc tạo cho dân Do Thái chỉ còn biết tin một cách tuyệt đối vào thượng đế. Họ tin chắc thượng đế sinh ra dân tộc họ, luôn luôn đặc biệt che chở, bảo vệ và thử thách để họ tồn tại. Ðã từ lâu các nhà tiên tri Do Thái tiên đoán thượng đế sẽ cử một đấng chúa giáng trần cứu độ loài người, mọi người nên làm những việc tốt lành để được cứu rỗi. Có lẽ nền tảng tín lý đó có thể đã là một phần yếu tố tạo cho đạo Ki Tô ra đời và có một số đức tin tương tự như đạo Do Thái.
Giây phút đầu tiên chào đời, Jésus Christ nhận nỗi bất hạnh thân phận con người nghèo khổ, ông sinh ra nằm trên máng lừa ở miền Béthléem, trong khi mẹ ông gặp cơn lưu lạc hoạn nạn. Khi lớn lên cho tới lúc chết ông ưu tư lo chuyên tâm giảng truyền giáo lý, luận điểm cốt yếu của ông là đề cao nhân từ, bác ái. Ông chống lại các bất công áp bức giữa con người và con người. Ông tin tưởng và kêu gọi mọi người cùng nên tin: thượng đế sinh ra mọi người, người ta phải kính yêu chúa Trời như cha và thương yêu đồng loại như anh em.
Xã hội La Mã khi đấng Christ tại thế, tràn ngập cảnh chiến tranh chém giết, cảnh đầy đọa nô lệ. Bọn vua chúa và nhà giàu phần đông rất ghét Jésus Christ. Dân Do Thái nhiều người cũng tức giận ông, vì ông nói Trời sinh ra mọi người và công bằng với tất cả, không ưu tiên thiên vị bất cứ dân tộc nào. Khi Christ đi giảng đạo tới Jérusalem bị dân Do Thái cho là giảng giáo lý gây phiến loạn, tìm cách mưu hại ông. Nhà cầm quyền La Mã đã xử tội, đem ông đóng đinh vào giá thập tự trên núi Golgotha. Ông đã chết trong tai nạn đau thương này và lúc đó mới khoảng hơn ba mươi tuổi, phải chịu cực hình bên cạnh hai tên cướp cũng bị hành hình như ông. Tuy vậy, trước khi chết ông thốt lên những lời khoan hậu tột cùng: "- Xin cha tha thứ cho họ, vì họ không biết họ đã làm việc gì". Từ khi trưởng thành cho tới lúc chết, các hành động cùng lời nói của Christ để lại cho người đời những suy nghĩ: không từ nan gian khổ để làm các điều thiện và người ta cũng ăn năn hối hận khi phạm vào tội ác, thói xấu.
Chúa Jésus
Có lẽ các truyền tích của Ki Tô giáo như đấng Christ là con duy nhất của thượng đế; đức mẹ Maria vô nhiễm, đồng trinh; ông Adam và bà Ève là thủy tổ loài người v..v... không thích hợp với những người có óc thực tiễn khoa học. 
Sự đa dạng và phức tạp của nhiều nền triết học Á Ðông, khi nhìn vào nền triết học Trung Hoa, thường người ta chỉ biết sơ sài về nền triết học cổ thu hẹp và tượng trưng qua bộ kinh Dịch. Thời gian khoảng trước công nguyên 1200 năm, vào thời nhà Ân ở Trung Hoa, tương truyền ông Tây Bá bị cầm tù ở đất Dữu Lý đã diễn giải kinh Dịch. Tiếp theo có những học giả như Chu Công Ðán thời đầu nhà Chu tìm hiểu các giá trị phương thức cho cuộc sống từ các điển tích, mẫu sống, lời dạy, các cáo bạch, lời thề, lời ban mệnh của người xưa, được gọi là: điển, mô, huấn, cáo, thệ, mệnh.
Lão Tử ra đời, tương truyền vào thế kỷ thứ năm trước công nguyên và trước Khổng Tử khoảng ba hoặc bốn chục năm. Người ta không biết cha Lão Tử là ai, theo tiểu truyện, bà mẹ sinh ông dưới gốc cây lý, nên lấy họ ông là Lý, nhìn trái tai ông dài nên lấy tên ông là Nhĩ. Ngoài ra, ông còn có tên là Lão Ðam, vì tướng mạo của ông ngay từ khi còn tuổi trẻ đã có sắc diện của một người già. Tuy vậy cũng có thuyết cho ông chỉ là một nhân vật tưởng tượng của đời sau tô vẽ nên ông, chính thức trong thực tế không có ông. Ông là người có kiến thức cùng tư duy cao rộng. Triều đình nhà Chu thấy ông học thức uyên bác, triệu về cho làm quan, song lại không biết sử dụng ông vào việc gì. Nhân thư viện nhà nước chưa có người trông coi, người ta giao cho ông việc coi thư viện. Nhờ đó ông đọc được nhiều sách cổ của các nước chư hầu nhà Chu và các sách trước thời nhà Chu. Về luận thuyết, Lão Tử có một số nhận định gần với Thích Ca. Lão Tử coi vạn vật đáng khinh như rơm rác (vạn vật nhi sô cẩu), thậm chí như loài chó rơm. Những giá trị, quyền lợi mà người đời tranh giành nhau, ông đều cho là không hợp với đạo đức, chân lý. Càng đem các phương pháp ước thúc, các cách giảng dạy gò ép, càng tạo các giả dối phi nhân, phi nghĩa. Lão Tử khẳng định: "Danh đáng gọi là danh chẳng phải cái danh thường, đạo đáng gọi là đạo chẳng phải cái đạo thường" (Danh khả danh phi thường danh, đạo khả đạo phi thường đạo). Ðối với người đời, ông muốn mọi người tự tìm ra chân lý đúng với lương tâm và tự hành động cho hợp với lẽ phải trong cuộc sống, tự chính mỗi người tìm thấy Ðạo. Ðạo bao trùm trời đất và mang lại sự thư thái phẳng lặng, thanh tịnh tiêu diêu cho muôn loài. Ông không muốn đem lời nói hoặc viết sách để khuyên răn người đời, vì Ðạo nằm trong lẽ vô vi. Ông cho lời nói và viết sách cũng là những thứ thuyết phục cùng ràng buộc con người tin theo, không thích hợp với lẽ tự nhiên. Tuổi về già Lão Tử sống cách biệt người đời, ở nhà làm theo hướng không quay mặt ra ngõ, không có cửa sổ và ông sống lặng lẽ cùng với một tiểu đồng. Hai thầy trò cùng sống theo lẽ tự nhiên, tự giác không ai nói với ai lời nào. Ông để lại cho người đời bộ "Ðạo Ðức kinh", theo huyền thoại cho là khi ông tìm đường vào rừng ở ẩn, ông bị viên quan coi cửa ải cưỡng bách viết sách rồi mới cho đi, thực tâm ông không muốn viết sách. Về sau người đời có nhiều người tu theo đạo vô vi của ông, người có đủ lương tri đến với Ðạo thì ít, gặp thời loạn, người ta trốn cảnh thế thái nhân tình tìm cách lánh đời, vô tình Ðạo đi tới chỗ yếm thế. Lại có những người theo Ðạo nhiễm chất dị đoan, coi Ðạo của Lão Tử là đạo tu tiên, luyện thuốc, tìm cách sống trường sinh bất tử.
Ra đời sau Lão Tử ít lâu, Khổng Tử là người ngắm chung bức tranh xã hội Trung Hoa thời nhà Chu cùng với Lão Tử. Ông người nước Lỗ (phạm vi tỉnh Sơn Ðông bây giờ) là một nước chư hầu tương đối không xa kinh đô nhà Chu. Theo tiểu sử, Khổng Tử là con thứ một vị quan võ. Cha ông đã có một người con ngoại hôn trước khi sinh ra ông. Người con ấy tên là Mạnh Bì, sau trở thành nghệ sĩ sân khấu. Vì là con một người nữ ca lâu và lại là con ngoại hôn, nên Mạnh Bì gần như bị coi là con vô thừa nhận, trong khi Khổng Tử được coi như con trưởng. Tính tình của Khổng Tử vào tuổi thơ ấu thích bày các đồ vật cúng tế để chơi. Học vấn của ông chuyên nghiên cứu các điển lễ, luật lệ, triều nghi và đẳng cấp của hệ thống chính trị nhà Chu. Có truyền thuyết nói ông từng đã gặp Lão Tử. Lão Tử khuyên ông không nên ước thúc đem hình thức lễ giáo mà giáo hóa đời.
Triết học của Trung Hoa từ Lão Tử tới Khổng Tử đã có những thay đổi đáng kể, ảnh hưởng của Khổng Tử cũng không nhỏ đối với nhiều nơi cùng nhiều thế hệ về sau. Các giá trị tích lũy lễ nghĩa, cuộc sống kỷ cương, với Lão Tử, chỉ là những "rơm rác", trái lại Khổng Tử nhặt nhạnh để xây thành khuôn mẫu, định chế cho người đời. Khổng từng giữ các chức quan coi hình luật và hành chính tại nước Lỗ, sau lại đi chu du các nước: Tề, Vệ, Trần, Sở, Tống, Trịnh, rồi lại trở về Lỗ. Ngoài việc dạy học, ông sưu tầm và hiệu đính các sách: thi, thư, lễ, nhạc, dịch, có từ các thời trước cùng soạn ra sách Xuân Thu, là một cuốn sử nói về thời đại Ðông Chu ở giai đoạn đầu.
Xã hội Trung Hoa thời cổ có chế độ chư hầu, do sự đem quân đi tuần thú với mục đích chinh phục và cướp phá các nước từ thời Hoàng Ðế. Chính sách chinh phục buổi sơ khai chỉ để cướp phá, bắt nước nhỏ yếu triều cống và chịu sự lệ thuộc đế chế Trung Hoa. Tuy vậy hệ thống chư hầu thường hỗn loạn và nhiều khi một nước chư hầu nào đó lớn mạnh chống trả lại cả chính quốc nếu chính quốc suy yếu. Thời đại nhà Chu lúc có Khổng Tử cũng là thời đại diễn ra nhiều hỗn loạn. Các chư hầu mạnh hiếp yếu, tranh cướp nhau, kinh đô nhà Chu nhiều lần bị đe dọa, dần dần thực tế lãnh thổ vua nhà Chu cai trị chỉ còn phần đất rất nhỏ, chỉ ngang tầm với một thái ấp của một nước chư hầu lớn. Chính vua nhà Chu nhiều khi nói chuyện với sứ thần các nước chư hầu mạnh, cũng chỉ dám tự xưng nước mình là một te䠼i style='mso-bidi-font-style:normal'>ấp. Ðời sống trật tự, luật lệ, luân thường, sinh hoạt từ cá nhân đến gia đình, xã hội bị khủng hoảng. Các định chế và qui luật áp dụng cho cuộc sống tuy khắt khe nhưng lại bất lực. Nguyên nhân do người ta khó tự nguyện tự giác mà theo vì nhiều thứ còn xa với tâm lý và không cảm nhận thích hợp với cuộc sống con người. Khổng Tử đem hết tâm trí nghị lực mong phục hồi các định chế và qui luật. Ông đem thi thư dạy người ta lẽ phải ở đời, đem lễ giáo uốn nắn cách xử sự, đem nhạc vun đắp tình cảm thuần nhã và đem dịch ứng phó với từng hoàn cảnh. Tuy vậy, đọc thiên Thuật Nhi trong sách Luận Ngữ, thấy chính ông cũng tự nhận: Giá trời cho ông sống thêm ít năm nữa, vì mãi năm mươi tuổi mới học Dịch, có thể ông không phạm vào lỗi lớn (Gia ngã sổ niên, ngũ thập dĩ học Dịch, khả dĩ vô đại quá hỹ). Kinh Dịch là cuốn sách ý nghĩa tượng trưng khó hiểu, ông cũng đã than: Tiếc rằng ta học kinh Dịch quá muộn (Tử vãn nhi hiếu Dịch). Có thể thấy từ những câu nói trên đã khiến Khổng Tử không thể áp dụng kinh Dịch sớm cho học thuyết của ông.
Khổng Tử chủ trương điều quan trọng cơ bản là xác định vị trí cuộc sống: "Vua cai trị nước, thầy dạy đạo lý, cha giữ quyền chỉ đạo trong gia đình". Cá nhân và cá nhân cùng mọi giao tế khác đối xử với nhau không bao giờ quên các điều: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Vì vậy vua phải ra vua, tôi phải ra tôi, cha ra cha, con ra con. Ðể phối hợp các cách xử sự cho hợp mọi hoàn cảnh, Khổng Tử khuyên mọi người: cung kính, nhân ái, hiếu đễ, trung thứ.
Tượng đài Khổng Tử tại trung tâm đô thị Chợ Lớn (miền nam VN)
Từ các nguyên lý luân thường trên, xã hội chia thành các thành phần như: sĩ, nông, công, thương. Giai cấp sĩ được trọng vọng vì họ nắm trong tay thi, thư, lễ, nghĩa, phù tá vua cai trị dân. Giới nông dân được trọng thứ nhì, bởi lẽ nông nghiệp sinh hoạt có tính cố định, thuận tiện để con người thi hành bổn phận, đồng thời cũng dễ dàng để quan lại quản trị và thu thuế cho nhà vua. Khi người ta đã đặt sĩ và nông lên trên, tất thương nghiệp và công nghiệp bị coi nhẹ không phát triển mau được.
Sự bất lực của Khổng Tử là trong khi ông nhiệt thành cổ vũ học thuyết, xã hội vẫn liên tiếp diễn ra các việc bất nhân, bất nghĩa, bất lễ, bất trí, bất tín, dường như theo đà thời gian càng ngày càng gia tăng. Bọn hôn quân bạo chúa tha hồ thi hành các chính sách tàn ác với dân. Nước mạnh lấn át cướp phá nước yếu, chiến tranh loạn lạc khắp nơi. Triều đình ngoài vua ra, còn có bọn hưởng tước lộc, đất đai như bọn: công, hầu, bá, tử, nam, tạo thành các triều đình nhỏ nhiều loại, không theo nguyên tắc người hiền tài lãnh đạo mà theo lệ cha truyền con nối, hoặc do cường quyền, trọc phú kế tiếp nhau giữ các ngôi vị cao trong xã hội. Nơi làng, thôn đồng ruộng cũng chia bè kết đảng do bọn thế gia vọng tộc cầm quyền. Khổ sở nhất là đa số nhân dân lầm than và hạng nông phu bị đày đọa, tuy không có chế độ nô lệ một cách rõ ràng nhưng đời sống người cùng dân không sung sướng gì hơn kiếp sống nô lệ. Tình trạng mua bán đánh đập, đày đọa con hầu đầy tớ cũng diễn ra phổ biến tại khắp nơi. Có lúc Khổng Tử dường như đành lòng bỏ qua không nghĩ tới những tủi nhục đau khổ của giới cùng dân phải chịu đựng. Chính ông đã nói: "Hình bất cập đại phu, lễ bất hạ thứ dân" (hình phạt không áp dụng cho bậc đại phu, lễ phép không dùng cho bọn dân hèn). Ðã như thế sự bất bình đẳng giữa con người và con người, thực sự quá rõ ràng. Thêm vào đó đời sống có nhiều tập tục hủ bại xâm phạm nhân quyền, nhất là đối với phụ nữ. Hầu như người ta quên rằng phụ nữ cũng là con người, cũng có những ước mơ, ham muốn, nhu cầu như nam giới. Qua lễ giáo người ta đặt ra hàng trăm thứ điều răn về công, dung, ngôn, hạnh chỉ riêng giới phụ nữ phải cam chịu. Ngoài xã hội phụ nữ bị hạn chế nhiều quyền hạn, trong cuộc sống gia đình họ cũng phải đành chịu: khi còn con gái sống ở nhà phải nghe theo lời cha, khi có chồng tuân theo lời chồng và khi chồng chết phải vâng theo lời con. Thật quá vô lương tâm và tàn nhẫn khi người ta đưa ra lời nói : "nhất nam viết đắc, thập nữ viết vô". Xét ra nếu nữ đã là vô thì dẫu có hàng triệu triệu con nguời nữ, dù nhân hay cộng lại cũng vẫn là con số không. Lời nói này chẳng những cực đoan, lạc hậu mà còn ngu độn, vì nếu không có phụ nữ loài người tất cũng không thể tồn tại.
Về lễ giáo Khổng học, qua các lễ nghi quan, hôn, tang, tế phiền phức, xét kỹ phần nhiều do trực hay gián tiếp, Khổng học cũng phải chịu một phần trách nhiệm. Khổng học có những khuôn mẫu tạo ra sự ít ứng biến theo hoàn cảnh, không thay đổi để tiến bộ theo thời gian.
Tư Mã Thiên khi viết về phong cách, cử chỉ của Khổng Tử đã miêu tả: "Khổng Tử lúc đi vào cửa công lom khom rảo bước, hai tay giang ra như hai cái cánh. Khi nhà vua gọi để tiếp khách thì sắc mặt thay đổi, khi nhà vua mời thì không đợi thắng xe. Cá ươn, thịt ôi hay cắt không ngay ngắn thì không ăn, chiếu trải không ngay không ngồi. Khi bên cạnh có người có tang thì không bao giờ ăn no. Ngày nào khóc thì không ca hát. Thấy người để tang hay người mù thì dù là trẻ con cũng tỏ ra kính trọng".
Khi Khổng Tử chết, những lễ nghi ông đề ra các học trò của ông rất tôn sùng, ai cũng để tang ông ba năm. Riêng Tử Cống để tang ông tới sáu năm. Có tới trên một trăm học trò vì thương nhớ thầy làm nhà ở cạnh mộ ông cho tới hết tang mới thôi. Với những nghi thức như thế, thật không quá đáng để khi nhận xét về lễ nghi, Mặc Tử và Án Tử đã phải thẳng thắn nói: "con người dành suốt đời để theo đúng các lễ nghi cũng không nổi". Ðiều này cũng biểu lộ là một trong những nguyên nhân khiến xã hội mấy nghìn năm chịu ảnh hưởng Khổng học bị những sợi dây hình thức lễ nghi ràng buộc khó tiến hóa.
Khổng Tử hi vọng vào những vua chúa là những người thi hành lý tưởng cao đẹp của ông. Hầu như ông đặt niềm hi vọng tuyệt đối với vua, khi đi ngang qua chiếc ngai vàng trống, dù không có vua ngồi ông cũng cung kính cúi đầu run sợ. Vua nước Lỗ ham mê tửu sắc bỏ việc triều chính, ông không có biện pháp nào cản ngăn hữu hiệu, đã toan bỏ đi, song ông lại nghĩ: nếu phần cỗ biếu đem cho ông giữ đúng nghi thức thì ông sẽ ở lại (!).
Học thuyết của ông không có biện pháp nào đủ sức mạnh ngăn cản được bọn hôn quân, bạo chúa phải e dè trước những hành vi bạo ngược, phóng túng, sa đọa. Việc giết các hôn quân bạo chúa như Kiệt, Trụ tuy ông coi như giết bọn thất phu (văn sát nhất phu Trụ vị văn thí quân). Nhưng tuyệt nhiên không thấy ông đưa ra được những nguyên tắc loại trừ hay thay thế được bọn vua chúa hoang dâm, tàn bạo. Các thế hệ về sau nhiễm nặng óc tôn quân thái quá còn đề ra các nguyên tắc: vua có thể ra lệnh giết thần dân dù oan ức, nếu chống lại lệnh vua là phạm tội bất trung. Vua có thể bắt hàng trăm, hàng nghìn gái đẹp nhốt vào cung cấm để thỏa mãn thú tính dâm dục, hiếu sắc. Vua có quyền ra lệnh cắt bỏ hàng trăm bộ phận sinh dục của thanh niên để có bọn quan hoạn phục vụ, canh gác đám vợ vua và cung nữ của vua. Sự mất lương tâm con người, phi nhân tính, bỏ rơi tính nhân văn xã hội tới độ vô liêm sỉ tồn chứa ở trong cái "ngôi báu thiên tử" ngồi cai trị cả nước đã như thế, hẳn sự tiến bộ văn minh xã hội không thể nào vươn lên được.
Nếu so sánh học thuyết của Khổng với nền văn minh "chế độ cộng hòa" của phương Tây: Platon và Aristote đã đề ra các nguyên tắc dân quyền, dân chủ cùng với quyền con người, phải thành thực nhận thấy rằng: quan điểm của Khổng học có nhiều điểm thua kém. Ðứng trên vị trí là những công dân Việt khi tìm hiểu học thuyết dân tộc, rồi lại liên tưởng tới các sáng kiến của Lang Liêu, không thể tránh khỏi những cảm khái ngậm ngùi: - Dân tộc Việt tại sao lại phải chịu chìm đắm trong đêm tối lạc hậu phong kiến cả hàng nghìn năm, khi chính dân tộc đã từng có nền văn minh rực rỡ ngay từ thời đại Hồng Bàng?
Khổng Tử phân biệt giá trị con người có tiểu nhân, có quân tử. Ðạo quân tử là: "người quân tử có cái ưu lo trước mọi người, hưởng an vui sau mọi người" (quân tử chi đạo tiên thiên hạ chi ưu, hậu thiên hạ chi an). Nhưng cái nguyên lý ấy lại chẳng có hiến pháp, luật lệ, sách vở nào qui định một cách rõ ràng. Do đó bọn vua quan tàn ác cường quyền, tướng cướp, trọc phú vẫn có nhiều cách để tự khoác cho mình chiếc áo quân tử. Kẻ bất lương nào chúng cũng có thể tự nhận là đã ưu lo cho mọi người cũng như rất xứng đáng được coi là quân tử. Vì thế, dù chịu gian nan cực khổ, nhiều khi gặp cả những cảnh tủi nhục, thầy trò Khổng Tử đi hết nước này tới nước khác, vẫn không có ông vua nào dùng họ. Ða số là bọn vua quan tàn bạo, hiếu chiến hay hoang dâm, nhưng ngay cả những nhà chính trị đạo đức có tài cũng không thể áp dụng học thuyết của Khổng học được. Thí dụ vào thời gian Khổng Tử đi tới nước Tề, vua nước Tề đã định cấp đất Ni Khê cho ông và phong cho ông chức đại phu. Nhưng tể tướng Án Anh là nhà chính trị lỗi lạc có tài, đã can vua Tề: "- Những nho sĩ hay nói nhiều, không thể làm gương mẫu cho dân được. Họ kiêu ngạo và ích kỷ không thể thành phần tử tốt. Chủ nghĩa của họ không nên áp dụng vào việc trị dân, bởi vì họ cho tang lễ có một giá trị quá quan trọng làm cho các tang gia bị khánh kiệt vì quá hao phí vào việc chôn cất người chết. Họ là hạng lãnh đạo không xứng đáng vì họ hay đi truyền giáo ăn vay và hành khất (câu này có ý ám chỉ khi đi du thuyết các nước, thầy trò Khổng Tử đi tới đâu, thường phải nhờ vua nước đó trợ giúp lương thực, tiền bạc và xe ngựa). Từ khi các bậc thánh hiền của chúng ta mất đi rồi và nhà Chu đã suy vi, lễ nhạc của chúng ta đồi bại và bị quên đi rất nhiều. Ngày nay Khổng Khâu đòi lập lại lễ nhạc, lễ nghi trong triều ngoài miếu. Như thế thì suốt đời người ta cũng chưa thuộc hết những nghi lễ vào việc khảo sát các chi tiết. Tôi tự hỏi nhà vua có nên cứ dùng Khổng Khâu nếu nhà vua nghĩ đến quyền lợi của dân?" (theo Sử Ký của Tư Mã Thiên).
Nghe theo những lời nghị luận trên của Án Anh, vua Tề đã thôi không dùng Khổng Tử làm quan tại nước Tề.
Khi trở về lại nước Lỗ, Khổng Tử chuyên chú hẳn vào việc dạy học. Ông xứng đáng là bậc mô phạm nổi danh ở thời ấy, có tài tổ chức trường ốc giáo dục, có công lớn giáo dục và cũng để lại khuôn mẫu giáo dục của ông có ảnh hưởng nhiều nơi cho nhiều đời sau bắt chước.
Có thể nhìn chân dung Khổng Tử qua hình tượng biếm họa, theo trí tưởng tượng của một người dân nước Trịnh, tả dáng người ông cho Tử Cống nghe, khi Tử Cống hỏi thăm người đi trên đường để đi tìm Khổng Tử trong lúc bị đi lạc: "- Có một người đang đứng ở cửa Ðông, trán rộng như vua Nghiêu, cổ như cổ Cao Dao, vai giống vai Tử Sản, người thấp hơn vua Vũ bốn tấc".
Ý nghĩa những lời tả hình dáng trên phác họa một Khổng Tử không có những nét đặc biệt của riêng ông. Các nhân vật như Nghiêu, Cao Dao, Tử Sản, và vua Vũ là những người sống trước Khổng Tử từ nhiều chục năm tới hàng nghìn năm. Ông chỉ là người được chắp nối: đầu, cổ, vai, thân của những người đã có sự nghiệp trước ông tác thành ra. Phải chăng người xưa khi viết về hình ảnh Khổng Tử, đã muốn ám chỉ học thuyết của họ Khổng chỉ là sự tổng hợp chắp nối chăng? Có thể cũng có nhiều lời, nhiều ý tưởng người các thế hệ sau cho là của Khổng Tử, chưa chắc hẳn đã hoàn toàn đúng, mà cũng lại chính là nhiều kẻ muốn mượn danh Khổng Tử đặt ra các lời nói gán cho là Khổng Tử nói, do mục đích muốn ý tưởng của họ được nhiều người tôn trọng.
Thuyết chính danh (sau khi đi chu du nhiều nước, Khổng Tử nói về thuyết chính danh cho Tử Lộ nghe), Khổng học muốn minh định cho con người, cho sự việc cho tới đồ vật mỗi thứ có giá trị ra sao phải đúng với tên gọi của nó. Khốn nỗi trong cuộc đời, tên hôn quân nào cũng muốn tự tôn mình là minh chúa, kẻ phản thần nào cũng muốn được gọi là tôi trung, cha ác chỉ muốn được nổi tiếng là từ phụ, đứa con nghịch tử bất hiếu cũng muốn mọi người khen mình là đại hiếu. Xã hội ở thời nào cũng lắm cảnh đảo điên, đồ giả thay cho đồ thực, cái xấu thế cho cái tốt, bọn sát nhân diệt chủng thường tự nhận là ái quốc thương dân. Cho nên từ khi có thuyết chính danh các danh gia gắng công làm việc mãi mãi mà cũng không làm cho người xấu vật giả tự nhận là xấu là giả được.
Sau khi Khổng Tử mất, Mặc Tử đề xuất thuyết nhân ái. Ông chủ trương dù phải lỏng gối mòn trán để làm việc thiện cũng cứ làm. Các luận giải của ông tóm lược là: "Không cần lễ, không cần nhạc, không đổ cho trời, không đổ cho mệnh, chỉ nên đề cao việc nghĩa". Sách của ông viết khuyên mọi người lưu tâm làm việc nghĩa, ông tin tưởng như thế tự nhiên đời sống mọi người sẽ thanh bình yên vui. Mặc Tử cũng thất bại trong việc khuyên các vua chúa làm việc nghĩa, việc tốt. Cuối cuộc đời, ông cùng một số học trò vào rừng sống, tự làm việc rất khắc kỷ để nuôi thân. Học thuyết của ông rất đáng tiếc là bài bác lễ, nhạc một cách cực đoan, không nhìn thấy cái lợi của lễ, nhạc đối với nhân quần xã hội. Sự khắc kỷ của ông, các trí giả đương thời cũng có nhận định: "Cuộc sống con người không thể như sợi dây cung luôn luôn căng thẳng, làm cho con người khô cằn hủy diệt". Ðối nghịch với Mặc Tử có phái Dương Chu hô hào con người nên sống vị kỷ. Nhưng phái này không tạo được ảnh hưởng nhiều trong xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ.
Cùng lúc ấy lại có phái Pháp gia cho rằng: "Vạn vật từ hòn đá tới cành cây không đẽo gọt không thể tự trở thành đồ dùng được. Con người phải tự quản chế bằng pháp luật mới có cuộc sống yên bình". Trịnh Tử Sản là người ra đời trước Khổng Tử, đặt ra luật pháp, rồi cho khắc những điều luật lên các đỉnh sắt để trước triều đình. Kể từ đầu thời nhà Chu, ông là người khởi xướng các nguyên tố cùng giá trị pháp lý nhưng lại là người cẩn trọng trong việc ban hành các luật pháp. Ông luôn cân nhắc một đạo luật mới có làm điều gì tổn hại tới cuộc sống sẵn có và gây ra các hậu quả có hại hơn là có lợi hay không? Các pháp gia nổi tiếng về sau như Thương Ưởng, Thân Bất Hoại, Hàn Phi Tử kẻ thi hành pháp chế, người viết sách cổ xúy và định đặt luật pháp. Ðặc biệt Thương Ưởng làm quan tại nước Tần đưa ra chính sách cai trị dân bằng pháp luật mới, cải tổ từ chính trị tới kinh tế. Xóa bỏ phương thức phong điền kiến địa theo phép "tỉnh điền" do nhà Chu đặt ra, khiến nước Tần trở thành nước mạnh. Cách kiểm tra và thống kê dân số theo lối ngũ gia liên bảo và thập gia liên bảo tương tự như các tổ nhân dân sau này, người nghĩ ra đầu tiên là Thương Ưởng. Ông hành xử luật pháp không khoan nhượng. Có lần hoàng tử nước Tần phạm tội, tuy không xử tội hoàng tử, ông đem xử tội thầy dạy cùng những kẻ thân cận của hoàng tử. Khi hoàng tử lên ngôi vua đã tìm cớ khép tội Thương Ưởng để trả thù. Thương Ưởng tìm cách đi trốn, các nhà trọ, quán trọ và dân chúng không ai dám chứa người lạ vì sợ phạm vào luật do chính ông làm ra, nên ông không có nơi trốn lẩn, ngủ nhờ. Hậu quả ông bị bắt và bị phân thây. Hàn Phi Tử số phận cũng không hơn gì Thương Ưởng. Khi vua Tần đọc sách của ông qua các cuốn: "Ngũ Ðố", "Thuyết Nan" và "Cô Phẫn" do ông viết, đọc sách xong vua Tần hết sức cảm mến ông, chỉ mong được hội kiến cùng Hàn Phi Tử một lần trong đời rồi sau có chết cũng thỏa lòng. Tới khi ông tự tìm tới phò giúp vua Tần, thì ông vua này lại tìm cách để giết Hàn Phi Tử, vì nghe lời dèm pha sợ Phi Tử là người có tài mà gốc lại là người nước Hàn, để ông sống sẽ không có lợi cho nước Tần.
Phái Pháp gia cũng có những khó khăn và nhược điểm: các điều lệ pháp luật không thể thích hợp ở khắp mọi nơi một cách đồng đều và cũng không thể phù hợp với mọi thời gian, với mọi hoàn cảnh. Vấn đề khó khăn nhất cho việc soạn thảo luật pháp là không am hiểu rõ luật sống, tập quán, tình cảm, tâm lý, tín ngưỡng của từng mỗi địa phương, luật pháp có thể thích hợp với nơi này nhưng khó hợp với nơi khác. Thêm nữa, ngoài luật pháp cũng cần đặt văn hóa, lễ giáo lên trên mới duy trì được xã hội hợp với lương tri cùng lẽ phải. Bất cứ chế độ nào khi lạm dụng cưỡng bách luật pháp, luật pháp sẽ bị phá sản; dân chúng sẽ bất chấp các luật pháp khắc nghiệt mà lại là tay sai cho cường quyền, áp bức. Khi luật pháp đã bị phá sản, tất theo sau là đại loạn và chế độ cường quyền áp bức cũng không thể tồn tại.
Chỉ trong vòng mấy thế kỷ trước công nguyên, khoảng bốn, năm trăm năm, ở Trung Hoa đã có nhiều học phái, triết gia ra đời. Các học phái tuy nhiều nhưng không mấy phái tránh khỏi những suy lý cực đoan. Thân phận con người trong xã hội cổ ở Trung Hoa, hầu như trải qua nhiều triết thuyết vẫn không nhìn rõ hướng đi cùng vị trí cuộc sống. Khi Khổng học được các chế độ quân chủ suy tôn, chiếm ngôi bá chủ trong các triết thuyết Trung Hoa, đời sống con người vẫn còn bao cảnh biển dâu sóng gió. Ít lâu sau có Mạnh Tử là người có những nhận xét nhiều xác đáng về các triết thuyết, như muốn kết thúc tạm thời những khác biệt, mâu thuẫn của các triết gia, đưa ra được lập luận phần nào ổn định cuộc sống. Ông đã than: "Bực thánh vương (ám chỉ Khổng Tử ?) chẳng làm gì được, các chư hầu tư tưởng phóng túng, kẻ xử sĩ bàn việc Dương Chu, Mặc Ðịch khắp nơi" (Thánh vương bất tác, chư hầu phóng tứ, xử sĩ hoành nghị Dương Chu, Mặc Ðịch chi ngôn doanh thiên hạ). Ông cũng có công canh tân và làm sáng tỏ thêm một phần học thuyết Khổng. Với các vua chúa, ông đề cao nền tảng dân quyền: "Dân đáng quí, thứ đến non sông xã tắc, vua chỉ coi là nhẹ" (Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh). Mạnh Tử cũng là chiến sĩ tích cực xây dựng hòa bình, có công đi du thuyết các nước, khuyên các vua chúa không nên gây chiến tranh để cùng sống trong thanh bình giao hảo. Có lần ông khuyên vua nước Lương nên theo chính sách hòa bình, ông cho rằng: "Nếu một nước giữ chính sách hòa bình, trong khi các nước khác hiếu chiến thì nước hòa bình sẽ thống nhất được thiên hạ". Ðiều đáng tiếc, những người như Mạnh Tử thực hiếm và ít ai có được chính sách kinh tế, chính trị hướng vào sức mạnh lòng dân, quyền người, khả dĩ tạo được sức thuyết phục các vua chúa, mới có thể ngăn cản được chiến tranh. Cuối cùng chiến tranh vẫn cứ mỗi ngày một khốc liệt, các chủ thuyết nhân đạo đành nhường bước cho chiến tranh ngự trị và nhà Tần đã thống nhất được Trung Hoa bằng cường quyền cùng bạo lực.
Thực sự nền triết học Trung Hoa không thể tiêu biểu cho nền triết học Á Ðông. Nó chỉ nhờ sự nảy mầm và phát triển ở vào vùng cư dân rộng lớn, lại được các đời: Tần, Hán, Ðường, Tống... về sau đem học thuyết lồng vào chính sách chinh phạt, thống trị để mở rộng biên giới nên dễ có sự hiểu lầm triết học Trung Hoa bao trùm cả nền triết học miền Ðông Á. Các nước như: Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, Thái Lan, Miến Ðiện v..v... dù bị ảnh hưởng ít hay nhiều triết học Trung Hoa, mỗi một nước trong các nước ấy vẫn có nền tảng triết học riêng, với tư tưởng bản sắc riêng của họ. Nếu lấy Việt Nam làm thí dụ, chắc hẳn các học thuyết Khổng, Lão sớm muộn rồi cũng có lúc bị phai mờ, song dân Việt cũng sẽ tự tìm được triết lý "cha Rồng mẹ Tiên" cho đến các giá trị triết lý qua các mô hình: Thánh Gióng, Chử Ðồng Tử, Lang Liêu, Tản Viên... sẽ chẳng bao giờ phai mờ, ngược lại chắc chắn sẽ bừng sáng rực rỡ trong tương lai.
Trở lại việc tìm hiểu các khuynh hướng tư tưởng nhân loại, từ Thích Ca, Lão, Khổng tới Jésus, tưởng như các giá trị tôn giáo của loài người tới thế kỷ thứ nhất đã qua thời kỳ bộc phát. Không ngờ khoảng sáu thế kỷ sau, lại có thêm một tôn giáo nữa ra đời. Ðó là Hồi giáo.
Nhân dân các nước Ả Rập miền Trung Ðông từ lâu theo tín ngưỡng đa thần. Tại ngôi đền cổ Kaaba ở La Mecque, dân chúng thờ miếng vẩn thiết từ không trung rơi xuống. Sự kiện này có thể được coi là ý thức tôn thờ thượng đế của dân chúng.
Người khai sáng ra đạo Hồi là Mohamed, ra đời năm 570, tại miền ngoại ô thị trấn La Mecque, con một gia đình rất nghèo. Ngay từ lúc tuổi còn nhỏ ông phải đi chăn cừu. Có lẽ vào thời gian thơ ấu này Mohamed đã ý thức được nhiều nỗi khổ của người nghèo. Ông cũng nhận thức bằng cảm nhận nào đó: đấng thượng đẳng Allah đến với ông, hướng ông vào nhiệm vụ cao cả vinh hạnh để hướng dẫn người nghèo được sống sung sướng với lòng tin ở đấng Allah. Vì thế các tín đồ Hồi giáo tin tưởng tuyệt đối: "Ðấng Allah đã truyền dạy những lời cứu khổ từ hư không cho Mohamed, khi ông đang ngồi chăn cừu trên đồng cỏ". Khi chưa là giáo chủ, Mohamed có thời gian dài làm nghề hướng dẫn các thương đội buôn bán đi trên đường bộ miền ranh giới từ Á sang Âu và ngược lại, qua lại các miền sa mạc Trung Ðông. Cũng trong thời gian ấy, ông quen một tu sĩ Ki Tô giáo. Sự quen biết này khiến kiến thức về tôn giáo của ông mở rộng rất nhiều và khiến cho sau này tín lý Hồi giáo có một số nét giống Ki Tô giáo. Cuộc đời Mohamed trải qua nhiều long đong, từng phải làm công cho một góa phụ. Tuy là giáo chủ một tôn giáo lớn nhưng ông có nhiều vợ. Cho mãi tới khi gần năm mươi tuổi ông mới bắt đầu tích cực hoạt động tôn giáo. Những khi đi thuyết giảng đạo lý, các giới dân chúng nghèo tin theo ông rất đông, ngược lại bọn phú hào tìm mọi cách ngăn cản ông. Ðặc biệt dân Do Thái đi hành hương tại La Mecque khi nghe ông giảng giáo lý, có nhiều người đã bỏ đạo Do Thái theo đạo Hồi. Ðể phù hợp với số tín đồ mới đông đảo, đạo Hồi có sự bổ sung một số giáo lý Do Thái. Dân cư tại thị trấn Médine là nơi cách La Mecque không xa lắm hầu hết theo đạo Hồi. Các tín đồ Hồi giáo nơi ấy khẩn khoản mời Mohamed tới sống tại Médine, nhưng ông vẫn ở lại La Mecque thời gian lâu, cho mãi tới đêm có thích khách tới ám sát ông, ông mới bỏ đi trước đó vài giờ. Cuộc đào nạn này là nguyên nhân tạo nên sự lớn mạnh bộc phát của Hồi giáo. Các tín đồ tin ông là đấng tiên tri tài ba, ông có khả năng thay mặt đấng Allah, tiên tri và cứu khỏi các tai nạn cho loài người.
Kinh Koran là cuốn kinh căn bản của đạo Hồi và rất dày, nội dung thuật lại mọi lời dạy bảo cùng các cuộc đàm thoại của Mohamed hướng dẫn đức tin cho con người. Ngoài phần giáo lý dẫn giải tường tận, kinh Koran còn chỉ dẫn hầu hết các lãnh vực cuộc sống: tín ngưỡng, chính trị, kinh tế, xã hội, y học, khoa học, luật pháp, phong tục, giáo dục, vệ sinh v..v... Tôn chỉ cần nắm vững nhất của giáo lý là câu châm ngôn ngắn gọn: "Thánh Allah là đấng thượng đế cao cả duy nhất và Mohamed là đấng tiên tri của mọi người". Câu nói này phổ biến và khắc sâu vào trong lòng tất cả các tín đồ, nên khi Mohamed tuyên bố thánh chiến các tín đồ Hồi giáo đã trở thành các chiến sĩ cảm tử vô song.
Vì là tôn giáo có những răn dạy bao trùm cả các vấn đề nhân sinh ngoài lãnh vực tôn giáo, nên sau khi chinh phục được các đất đai mới, đế quốc Hồi giáo mau chóng ổn định và thành lập được đế quốc từng rộng lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Họ học lại triết học và khoa học của Hi Lạp, Ấn Ðộ, Ba Tư và Do Thái. Nhiều trường đại học được thành lập, nhiều trung tâm thương mại, công nghiệp ra đời. Ảnh hưởng văn minh Hồi giáo khai sáng và để lại nhiều giá trị cho nhân dân khắp miền Trung Ðông. Nếp sống hàng ngày của người Hồi giáo hầu như không có điều gì có thể tách khỏi ra ngoài tín ngưỡng. Dù sinh sau đẻ muộn so với nhiều tôn giáo khác, Hồi giáo hiện nay có khoảng một tỷ tín đồ sống khắp mọi nơi trên thế giới. Nhờ được thiên nhiên ưu đãi, nhiều quốc gia Hồi giáo tại miền Trung Ðông có tài nguyên dầu mỏ, người dân Hồi giáo dốc lòng vào việc cầu nguyện. Có những nơi các tín đồ theo đúng nghi thức quy định, dành thời gian mỗi ngày năm lần cầu nguyện tại nhà thờ, khi hành lễ, người tín đồ thuần thục phải áp mặt và các phần chính thân thể thật sát mặt đất. Ðối với những nơi danh địa linh thiêng, trong những ngày trọng lễ, dân chúng nhiều nơi tìm đến hành lễ đông đảo với đức tin cao độ.

* * *

Với tầm nhìn tóm lược về một số tôn giáo và học thuyết lớn, tất nhiên còn có nhiều tôn giáo cùng học thuyết cũng như các chủ nghĩa rất có giá trị khác, rất tiếc đã không đề cập tới hết.
Ðặc biệt có nhiều thành tựu đáng lưu tâm: các tư tưởng dân chủ, nhân quyền, giải phóng dân tộc, giải phóng lao động, giải phóng áp bức, thăng tiến xã hội, nâng cao các tiến bộ văn minh khoa học v.v... tại thời cận đại mở ra triển vọng tương lai sáng sủa đến với loài người. Nhưng phạm vi hạn chế của cuốn sách cộng với kiến thức kẻ viết hạn hẹp không thể đề cập hết, tác giả tự nhận là điều mang lỗi lớn, và cũng là điều đáng tiếc trên tất cả mọi sự đáng tiếc.
Không thể chối cãi qua quá trình tiến bộ văn minh, tất cả đều là tài sản quí và là của chung của cả loài người. Cũng từ những giá trị lớn lao ấy, được coi là khối nguyên liệu vô tận xây dựng tương lai loài người, có thể đưa ra nhận xét:
Tâm lý và sinh hoạt nhân dân ở mỗi vùng cư dân trên trái đất, theo thời gian khác nhau, có những nhu cầu khác biệt nhau, thay đổi tùy theo hoàn cảnh lịch sử.
Mỗi tôn giáo, chủ thuyết hoặc chế độ ra đời, chỉ có thể tồn tại và phát triển nếu phù hợp với tâm lý, trình độ và nhu cầu sinh hoạt của nhân dân tại vùng cư dân có tôn giáo, chủ thuyết hoặc chế độ ra đời.

* * *

Lịch sử loài người phải đợi cho tới cuối tháng tư năm 1945, lần đầu tiên có được sự tụ họp đông đảo của 50 phái đoàn đại diện các quốc gia trên thế giới. Ngày 26 tháng 6 năm 1945 bản Hiến Chương của Liên hiệp Quốc được thông qua, các nước tham dự cùng ký kết vào Hiến Chương gồm mười chín chương và có một trăm mười một điều. Những giòng chữ dưới đây được ghi vào trang đầu bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc:
"Chúng tôi, những dân tộc Liên Hiệp Quốc quyết tâm:
Cứu vớt các thế hệ về sau khỏi hiểm họa, chiến tranh đã hai lần trong đời chúng ta, đem lại những đau thương vô bờ bến cho nhân loại.
Xác nhận một lần nữa việc tin tưởng vào các quyền cơ bản ở phẩm giá cùng giá trị con người, ở quyền bình đẳng giữa nam và nữ và giữa các nước lớn và nước nhỏ.
Tạo điều kiện để duy trì lẽ công bằng và sự tôn trọng điều ước và công pháp quốc tế.
Khuyến khích sự phát triển xã hội cùng cải thiện mức sống trong khuôn khổ tự do rộng rãi.
Và muốn đạt các cứu cánh đó phải:
Chung sức bảo vệ hòa bình và an ninh quốc tế, cùng bảo đảm bằng cách chấp nhận nguyên tắc và đề thảo phương pháp, võ lực sẽ không được sử dụng trừ trường hợp vì quyền lợi chung.
Dùng cơ quan quốc tế để khuyến khích sự phát triển kinh tế và xã hội của tất cả các dân tộc.
Tượng thần Tự Do
Khi soạn thảo bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, người ta qui định:
"Bất cứ vấn đề quan trọng nào, các nước mạnh có chân thường trực trong Hội Ðồng Bảo An cũng phải đồng ý tất cả. Như thế có sự nhất trí tuyệt đối, và điều đó là căn bản để giữ hòa bình trong thống nhất ý chí". Do đó, nếu một trong năm cường quốc của Hội Ðồng Bảo An phủ quyết một quyết định nào, quyết định ấy không còn có giá trị thực hiện. Hậu quả là các quyền phủ quyết đã ngăn cản nhiều nghị quyết quan trọng và có ích, chỉ vì một cường quốc cảm thấy thiệt hại cho quyền lợi riêng của mình. Ðồng thời cũng có nhiều nghị quyết được chấp nhận vì chỉ có lợi cho các nước lớn, còn quyền lợi của đa số các nước nhỏ hay yếu không được chú tâm tới. Do cục diện thế giới thay đổi, về sau có nhiều nước lớn mạnh đáng lý phải có chân thường trực trong Hội Ðồng Bảo An, nhưng lại không được bình chọn, để đáng lý, phải có thêm nhiều nước lớn có chân thường trực trong Hội Ðồng Bảo An, mới có sự quân bình đúng với lẽ công bằng. Cho tới nay, đáng tiếc đã có một số nghị quyết chưa được thực sự phù hợp công lý.
Sự thuận tiện để Liên Hiệp Quốc có thể làm việc hữu hiệu vẫn chính là: lương tâm, tình cảm, thiện chí tốt đẹp của các đại biểu các nước giữ trách nhiệm chung và chí công của quốc tế. Chỉ có sự làm việc công tâm mới tạo nổi cho tổ chức quốc tế hướng tới lớn mạnh, công pháp và luật lệ quốc tế đạt tới mức hoàn hảo, tiến bộ. Ðời sống văn minh, khoa học mới có hoàn cảnh phát triển mau chóng đưa loài người tới chân trời hạnh phúc. Ai cũng hiểu khi mọi người đối xử với nhau bằng tình người và sống với nhau trong cộng đồng tốt đẹp xứng danh là tập thể loài người, tất cuộc sống phải có hạnh phúc.
Vũ trụ bao la vô tận, trong đó có trái đất, có con người có đầy đủ lương tâm và lý trí. Có nghĩa là khi con người đạt tới mức toàn thiện cao thì con người cũng có quyền trở thành thượng đế, thành phật, thành chúa, thành tiên, thành thánh. Sự tiến bộ vượt mức về khoa học mà loài người đã đạt được, đồng thời loài người cũng phải vượt cao hơn tất cả mọi tư duy, mọi lương tâm, đạo đức, kiến thức hẹp hòi để vươn bắt nhận những giá trị lương tâm, đạo đức nhân sinh rộng lớn tạo những thành quả mới xây dựng hạnh phúc. Khoa học không gian kết hợp cùng nhiều lãnh vực khoa học khác, với các khám phá mới về nhân bản vô tính, mô, tế bào, nhân tế bào, đột biến và biến đổi gien (gène), trong tương lai có thể có những tiến bộ phi thường về y học, về nhân chủng, sinh học v..v. Có thể con người sẽ chấm dứt hiểm họa bệnh tật để trường sinh bất tử và cũng có thể nhân giống loài người chuyển qua không gian sinh sống ở các hành tinh xa lạ có sự sống.
Nhưng cận kề trước mắt loài người cần có nhiều tương thân, hợp tác, giao lưu. Tổ chức Liên Hiệp Quốc cùng các quốc gia trên thế giới hẳn cũng nhận thấy được rằng: "Không là các nước chỉ tài giảm vũ trang, mà nên bãi bỏ hoàn toàn sự vũ trang quốc phòng của mọi nước trên thế giới. Các nước không còn sức mạnh gây chiến, không còn nước hiếu chiến nào có thể dùng bạo lực gây thảm họa cho nước khác". Hiện nay đã có sự tiến bộ của một số ít nước công khai xóa bỏ sự trang bị quốc phòng. Nếu tất cả các nước không còn lực lượng quốc phòng, Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp quốc lúc ấy, chính nó tự nhiên đã được đặt trong tay sứ mệnh hòa bình một cách bảo đảm bằng sức mạnh. Chỉ một phần nhỏ vũ khí và quân đội của mỗi nước hội viên, đóng góp nhiều, ít tùy theo tỷ lệ nước lớn hay nhỏ gom lại, sẽ thành lực lượng đáng kể, được thành lập dưới quyền chỉ huy của Hội Ðồng Quân Sự Quốc Tế. Lực lượng Quân Sự Quốc Tế vì công lý, vì hòa bình đủ sức để dập tắt mau chóng những mầm nổi loạn trái lương tâm và lẽ phải, trái ngược với hạnh phúc chung loài người, xảy ra ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Ngoài quân đội Quốc Tế, tổ chức Quốc Tế cũng đảm trách cả các cơ quan An Ninh và Cảnh Sát của Liên Hiệp Quốc, cũng như được quyền bảo vệ an ninh trật tự, điều hành, giám sát các hoạt động giao thông, thương mại, viễn thông và nhiều sự giao lưu; được quyền thu các sắc thuế thuộc lãnh vực quốc tế, được phát hành tiền tệ quốc tế. Tổng thể là tổ chức Liên Hiệp Quốc có tất cả các hoạt động, quản trị về mọi mặt gần như chính quyền liên bang chung của thế giới, tuy nhiên không vi phạm các quyền cần thiết bảo vệ quyền độc lập, tự trị, bảo vệ các giá trị đạo lý truyền thống, bản sắc văn hóa của các quốc gia hội viên.
Nhược điểm của thế giới loài người hiện nay là đầu tư trí tuệ, tài sản, và sức mạnh vào tổ chức Liên Hiệp Quốc còn quá sức nhỏ bé, ngân sách hết sức hạn chế cùng số nhân sự hoạt động phục vụ cho tổ chức quốc tế này cũng còn quá ít. Tình trạng bùng phát dân số quá nhiều, các nơi dân số đông không giới hạn được, lại là những nơi con người trở thành nạn nhân của mức dân sinh, chế độ xã hội thấp kém, thiếu chăm sóc y tế, giáo dục, văn hóa. Cùng hướng bùng nổ dân số, sự cạn kiệt sinh thái, ô nhiễm môi trường cũng đang là vấn nạn nghiêm trọng.
Về hướng tiến bộ thay đổi tâm lý, văn hóa theo tiến bộ của nhân loại, đến một lúc nào đó, các tượng đài xây dựng tại các công viên quảng trường, các tụ điểm nhiều người quan chiêm sẽ là tượng đài các nhà khoa học, phát minh có công với loài người. Sẽ là tượng các tư tưởng gia chân chính, danh nhân, văn nhân, nghệ sĩ v..v... tất cả những ai đóng góp xây dựng làm tỏa sáng tình thương bao la chung cả loài người trong thanh bình, văn minh, tiến bộ. Mục đích chung của giới cao nhân, đại trí là đề cao lương tâm tình cảm con người không phân biệt màu da, tín ngưỡng và các khác biệt văn hóa, đẳng cấp, phong tục, tập quán. Các tượng đài tiêu biểu văn minh, tiến bộ trong thanh bình sẽ dần dần thay thế cho các tượng đài chiến sĩ anh hùng trong chiến tranh. Ðồng thời cải thiện tình trạng phân biệt chủng tộc, di chuyển cư trú, nâng cao các giao lưu: hội họp, văn hóa, thương mại, dịch vụ, nghề nghiệp, khoa học, tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật, giáo dục, du lịch, thể thao v..v... cùng với các hợp tác sinh hoạt nhiều mặt thuộc cộng đồng quốc tế phát triển. Tới khi ấy là lúc thế giới đặt chân vào cuộc sống hạnh phúc.
Sở dĩ cuốn sách này mạn phép viết những giòng ngắn về lý tưởng loài người, vì chính lý tưởng ấy là hoài vọng của tổ tiên dân tộc Việt Nam đã có từ nghìn xưa truyền nối cho tới ngày nay. Tổ tiên giống Việt hằng mong ước được cùng loài người sống chung dưới một mái nhà, mái nhà ấy là bầu trời; sống chung với loài người cùng trên một nền đất, nền đất ấy là mặt đất không biên giới, có cỏ cây, sông núi, biển cả xanh tươi bao la. Niềm mong ước ấy trong tâm khảm gần trăm triệu dân nguời Việt sống ở trong và ngòai nước vẫn còn giữ nguyên vẹn, mỗi khi nhìn thấy biểu tượng tôn thờ "bánh Dầy bánh Chưng" lại như nhìn thấy mái nhà bầu trời trong trắng bao la che phủ, lại như nhìn thấy nền đất cỏ cây thắm màu xanh tinh khiết chan hòa tình thương đồng loại cùng lẽ sống nhân ái tương thân khắp toàn thể loài người.


Ðẹp sử Trưng Vương

Hãy cùng nhau những công dân nước Việt,
Lắng tâm hồn nghe tiếng nói Trưng Vương.
Muôn âm thanh : vang vọng xé đau thương ;
Ngàn cây lá hiên ngang đều đứng dậy.
Sáu mươi lăm thành vùng lên lừng lẫy :
Mọi con đường lớn, nhỏ, chật đông người :
Hô vang to: Tổ Quốc núi sông ơi !
Hất bỏ hết gông cùm thề quyết chiến.
Chung sức mạnh nâng núi cao chặn biển.
. Rung chuyển trời mây . Chân đất đuổi thù.
Lời hịch tuyển quân truyền khắp biên khu.
Bọn cướp nước trốn như loài chuột nhắt.
Giao Chỉ, Cửu Chân, Thương Ngô. hợp nhất,
Bóng cờ cao làm náo nức muôn phương.
Tình trăm con một bọc nghĩa Việt Thường,
Sống oanh liệt thời Hùng Vương lập nước.
Giòng giống Lạc Hồng hào quang thuở trước.
Sáng bình minh chung một mẹ Âu Cơ !
Hồn thiêng nước non phất phới màu cờ.
Gươm chính khí kể từ đây bất khuất.
Sức quật khởi xô nghiêng trời lở đất,
Dạy cho phường cường bạo biết: Rồng, Tiên !
Nhật nguyệt còn, còn Tổ Quốc thiêng liêng,
Giữa vụ trụ tác thành nên nòi giống.
Muôn vạn đời sau bảo tồn lẽ sống,
Quyết chẳng hề phai trang sử Trưng Vương.
Sử đẹp hơn vàng, hơn cả kim cương !
Chí phụ nữ cao trên tầm nhân loại.
Dân nước Việt nguyện ghi ơn mãi mãi.

VƯƠNG ÐÀM